Đại Lý Gas Gia Đình Đường Nguyễn Hoàng, Quận 2 chuyên giao lẻ gas Gia Đình dân dụng 12kg tại nhà cho hộ gia đình, chung cư, căn hộ, chung cư cao cấp và giao sỉ gas Gia Đình dân dụng – gas Gia Đình công nghiệp 45kg cho quán ăn, nhà hàng, khách sạn, quán nhậu, văn phòng công ty, căn tin, bếp ăn công nghiệp… tại Quận 2. Khách hàng có nhu cầu đổi gas Gia Đình vui lòng gọi (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Nguyễn Hoàng, Quận 2 Với Dịch Vụ Chuyên Nghiệp
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Nguyễn Hoàng, Quận 2 giao gas nhanh và an toàn
- Luôn chủ động giao gas nhanh nhất đến nhà khách hàng.
- Luôn giao gas Gia Đình chính hãng, có thương hiệu đảm bảo chất lượng.
- Luôn cân bình gas tại nhà khách hàng, đảm bảo đủ ký.
- Luôn kiểm tra rò rỉ gas mỗi khi giao gas để đảm bảo an toàn cho khách hàng.
Giao Gas Gia Đình Chính Hãng |
Gas Gia Đình Luôn Cân Gas Tại Nhà |
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Nguyễn Hoàng, Quận 2 luôn có hậu mãi chu đáo
- Có đội ngũ bảo trì định kỳ bếp gas, van gas, dây dẫn gas hoàn Toàn miễn phí.
- Sửa bếp gas miễn phí cho khách hàng trong suốt quá trình sử dụng.
- Được đội ngũ của đại lý gas Bình Minh giao tận nhà.
- Hệ Thống giao gas 24 quận huyện Tp.Hồ Chí Minh.
- Khách hàng có nhu cầu ký hợp đồng, sử dụng số lượng nhiều, vui lòng liên hệ tổng đài (028) 6683 6644 để có chính sách giá tốt nhất.
Sản phẩm của Đại Lý Gas Gia Đình Đường Nguyễn Hoàng, Quận 2 bán nhiều nhất:
Gas Gia Đình Vàng |
Gas Gia Đình Xám |
Gas Bình Minh Vàng |
GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY GAS GIA ĐÌNH
- Tên đầy đủ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MTV KHÍ ĐỐT GIA ĐÌNH
- Địa chỉ Khu phố 4, Lã Xuân Oai, phường Tăng Nhơn Phú A, Quận 9, TP. HCM
- Điện thoại, Fax 8.54136338 – Fax: 8.5413634
- Website, Email Website: www.anphapetrol.com – Email:info.gds@anphapetrol.com
Giới thiệu sơ lược về doanh nghiệp
Công ty Cổ phần Tập Đoàn Dầu khí An Pha là một trong những công ty hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh khí hóa lỏng ở Việt Nam.
Là một trong 3 công ty chiếm lĩnh thị phần gas dân dụng lớn nhất cả nước (Sài Gòn Petro, An pha Petrol và Petrolimex).
Là một trong 4 công ty kinh doanh gas hàng đầu Việt Nam có hệ thống kho chứa đầu mối ở cả hai miền Nam Bắc (Petrolimex Gas, Petronas – Thăng Long Gas, Petro Vietnam Gas và An pha Petrol).
Là công ty gas duy nhất có hệ thống hoàn chỉnh từ khâu nhập khẩu, vận tải, tồn trữ đến phân phối bán buôn, bán lẻ trên địa bàn toàn quốc với qui mô lớn.
Công ty hiện sở hữu 2 thương hiệu gas có uy tín trên thị trường Nam Bắc:
- Thương hiệu An pha Petrol – là thương hiệu của Công ty mẹ và cũng là thương hiệu của cả Tập đoàn, chiếm 7% thị phần Miền Nam.
- Ở miền Bắc, thương hiệu Gia dinh Gas thuộc Công ty TNHH Khí đốt Gia Định (Hà Nội) chiếm khoảng 10% thị phần, nằm trong Top 5 công ty có thị phần lớn nhất miền Bắc.
- Ở miền Nam, thương hiệu Gia dinh Gas thuộc Công ty TNHH MTV Khí Đốt Gia Đình (Quận 9, TPHCM) chiếm 5% thị phần, nằm trong Top 10 công ty có thị phần lớn nhất miền Nam.
An pha Petrol nhanh chóng có được vị thế đó một phần rất lớn là do thiết lập được mối quan hệ hợp tác bền vững và tin cậy với những tên tuổi lớn trong ngành từ Bắc đến Nam như: Petro Vietnam, Petrolimex, Sài Gòn Petro, Thăng Long Gas, VTGas …
Thời gian gần đây với sự phát triển mạnh mẽ và tiềm năng to lớn, An pha Petrol đã thu hút được sự quan tâm của các tổ chức quốc tế và trong nước.
Đó là sự đầu tư của các tập đoàn nước ngoài và ngân hàng quốc doanh hàng đầu trong nước:
- Quỹ phát triển Việt Nhật (Japan-Vietnam Growth Fund L.P.): do Tập đoàn Sojitz, Quỹ đầu tư Châu Á và một số ngân hàng Nhật Bản sáng lập vào tháng 9/2006. để đầu tư vào Việt Nam.
- Tập đoàn Sojitz: là một tập đoàn lớn của Nhật, nổi tiếng trên lĩnh vực cung ứng và xuất nhập khẩu LPG trên toàn thế giới.
- Công ty chứng khoán SK (SK Securities) thuộc tập đoàn SK của Hàn Quốc.
Để biết thông tin chi tiết về gas Gia Đình, giá bán các loại gas Gia Đình dân dụng 12kg, gas Gia Đình công nghiệp 45kg, chính sách giao gas, chính sách hậu mãi. Quý khách vui lòng liên hệ qua số (028) 6683 6644
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GAS GIA ĐÌNH
Tiền thân của Tập đoàn Dầu khí An pha Petrol là Công ty TNHH DV – TM Gia Đình (nay là Công ty TNHH MTV Khí Đốt Gia Đình).
Tháng 4/1999, Công ty TNHH DV – TM Gia Đình được thành lập với chức năng chuyên kinh doanh gas dân dụng và gas công nghiệp.
Tháng 4/2004 thị trường có nhiều biến động, do nhu cầu phát triển, Công ty cổ phần Dầu khí An Pha S.G (nay là Công ty Cổ phần Tập Đoàn Dầu khí An Pha) được thành lập, với mục đích đầu tư và quản lý hệ thống cơ sở hạ tầng đầu vào cũng như hệ thống kho dự trữ đầu mối và vận tải LPG cho đối tác chiến lược và các công ty kinh doanh Gas dân dụng thương hiệu Gia dinh Gas.
Tháng 4/2005 thành lập Công ty Cổ phần Dầu khí An Pha tại Hà Nội nhằm quản lý khai thác kho đầu mối các tỉnh phía Bắc.
Tháng 03/2007 mua lại phần vốn góp và sở hữu 99% Công ty TNHH DV – TM Gia Đình và thương hiệu Gia dinh Gas( nay là Công ty TNHH MTV Khí Đốt Gia Đình).
Tháng 3/2007 trở thành Công ty đại chúng.
Tháng 4/2007 mua lại phần góp vốn và sở hữu 51% Công ty MTV Dầu Khí An Pha Tây Ninh (tức Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại L.P.G Minh Thông) và thương hiệu JP GAS
Đồng thời thành lập Công ty cổ phần Đầu tư Thủy điện An Pha ở Sơn La để thực hiện các dự án thủy điện trọng điểm ở Sơn La, Cao Bằng với tỷ lệ sở hữu 55%.
Tháng 5/2007 mua lại phần góp vốn và sở hữu 60% Công ty TNHH Khí Đốt Gia Định (Hà Nội)
Tháng 6/2007 thành lập Công ty Cổ Phần Dầu khí An Pha Tây Nguyên (Đăklăk) để mua lại DNTN Hoàng Minh và thương hiệu Dakgas , tỷ lệ sở hữu là 55%.
Tháng 9/2007 ký kết hợp đồng đầu tư và hợp tác chiến lược với tập đoàn dầu khí quốc tế đến từ Nhật Bản – Sojitz Petroleum Co. Pte. Ltd và Quỹ đầu tư phát triển Việt Nhật thông qua hợp đồng bán 5,5% cổ phần.
Tháng 10/2007 ký kết hợp đồng đầu tư bán 10% cổ phần cho Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam. Trong thời gian này Công ty lại tiếp tục ký kết hợp đồng đầu tư chiến lược bán 8% cổ phần cho Công ty chứng khoán SK (SK Securities).
Để tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh, Công ty mẹ đã quyết định bán lại một số công ty con, tập trung vào các mũi hoạt động chủ lực nhằm thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ những lợi thế chính của Tập đoàn :
Tháng 6/2009 : Bán lại Công ty cổ phần Đầu tư Thủy điện An Pha.
Tháng 7/2011 : Bán lại Công ty MTV Dầu Khí An Pha Tây Ninh.
Tháng 7/2011 : Bán lại Công ty Cổ Phần Dầu khí An Pha Tây Nguyên.
Kể từ khi thành lập đến nay, Anpha Petrol luôn chú trọng đầu tư phát triển, đưa Tập đoàn ngày càng lớn mạnh và hiện nay là Tập đoàn Dầu khí tư nhân lớn mạnh nhất ở Việt Nam.
Anpha Petrol cũng tích cực tham gia nhiều các hoạt động xã hội, là Nhà tài trợ cho các Giải bóng đá trong nước. Được nhận nhiều Giấy khen, Bằng khen của Chính quyền và các Bộ, ngành.
Nguyễn Hoàng là vị chúa Nguyễn đầu tiên
Nguyễn Hoàng ( 28 tháng 8, 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay Nguyễn Thái Tổ, Chúa Tiên, là vị chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho vương triều Nguyễn (1802 – 1945). Ông quê ở làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, xứ Thanh Hoa, ngày nay là Gia Miêu Ngoại Trang, thôn Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, Tỉnh Thanh Hóa. Ông nội (Nguyễn Hoằng Dụ) và cha ông (Nguyễn Kim) là những trọng thần của triều đình nhà Hậu Lê. Sau cái chết của Nguyễn Kim, người anh rể Trịnh Kiểm nắm giữ quyền hành đã giết chết anh trai ông là Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng nhờ chị gái xin Trịnh Kiểm cho mình vào trấn thủ Thuận Hóa, Trịnh Kiểm chấp thuận.
Vào năm 1558, ông cùng với con em Thanh Nghệ tiến vào đất Thuận Hóa đóng ở xã Ái Tử (sau gọi là kho Cây khế), thuộc huyện Đăng-xương, tỉnh Quảng Trị. Năm 1559, ông được vua Lê cho trấn thủ đất Thuận Hóa, Quảng Nam. Năm 1593, Nguyễn Hoàng đem quân ra Bắc giúp họ Trịnh đánh dẹp, lập nhiều công lao. Trịnh Tùng vẫn ngầm ghen ghét, tìm cách giữ Nguyễn Hoàng lại, không cho về Thuận Hóa. Năm 1600, Nguyễn Hoàng giả cách nói đi dẹp loạn, rồi tự dẫn binh về Thuận Hóa. Từ đấy Nam Bắc phân biệt, bề ngoài thì làm ra bộ hòa hiếu, nhưng bề trong thì vẫn lo việc phòng bị để chống cự với nhau.
Nguyễn Hoàng đã có những chính sách hiệu quả để phát triển vùng đất của mình và mở rộng lãnh thổ hơn nữa về phía Nam. Các vị Đế, Vương hậu duệ của ông tiếp tục chính sách mở mang này và đã chống nhau với họ Trịnh bất phân thắng bại trong nhiều năm, cuối cùng họ Nguyễn cũng đã hoàn thành việc thống nhất đất nước từ Nam đến Bắc ở đất liền, cùng với chủ quyền biển đảo ở biển Đông, khởi đầu từ niên hiệu Gia Long (cháu đời thứ 10 của ông).
Tiểu sử
Nguyễn Hoàng là người ở làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, xứ Thanh Hoa, là con trai thứ của Nguyễn Kim và bà chính thất Nguyễn Thị Mai, con gái của Đặc tiến quốc thượng tướng quân thự vệ sự triều Lê Nguyễn Minh Biện (quê ở làng Phạm Xá, xã Ngọc Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương). Tiên tổ Nguyễn Hoàng là Nguyễn Công Duẩn, theo vua Lê Thái Tổ, làm quan đến Phụng thần vệ tướng quân Gia đình Hầu, Hoành quốc công. Nguyễn Công Duẩn sinh Nguyễn Đức Trung, đời vua Lê Nhân Tông làm Điện tiền chỉ huy sứ, đã cùng Nguyễn Xí mưu lập vua Lê Thánh Tông, làm đến Đô đốc Trịnh quốc công. Nguyễn Đức Trung sinh Nguyễn Văn Lãng (hay Lang), Nguyễn Văn Lang làm tướng triều đình thời Lê Uy Mục. Khi vua Uy Mục mất lòng dân, Nguyễn Văn Lang cùng con là Nguyễn Hoằng Dụ họp quân ba phủ xứ Thanh tôn con Kiến vương Lê Tân là Lê Oanh lên làm vua. Lê Oanh đánh đổ Lê Uy Mục, trở thành vua Lê Tương Dực, đã phong Nguyễn Văn Lang tước Nghĩa quốc công, Nguyễn Hoằng Dụ làm Thái phó Trừng quốc công.
Cha của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Kim, con trưởng của Nguyễn Hoằng Dụ, làm quan cuối triều Lê sơ, giữ chức Hữu vệ điện tiền tướng quân, tước An hòa hầu. Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, Nguyễn Kim có chí muốn khôi phục, ông dẫn con em sang Ai Lao thu nạp hào kiệt, tìm con cháu nhà Lê phò lập.
Giai đoạn đầu đời
Năm 1527, xảy ra sự biến Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Lê Cung Hoàng, lúc ấy Nguyễn Hoàng mới lên 2 tuổi. Nguyễn Kim đã phải tránh sang Lào, xây dựng lực lượng, tìm cách khôi phục nhà Lê. Nguyễn Kim để Nguyễn Hoàng lại cho người anh vợ là Thái phó Nguyễn Ư Dĩ nuôi dưỡng.
Năm 1533, Nguyễn Kim đón con trai của Lê Chiêu Tông tên Lê Ninh, lập làm vua tức vua Lê Trang Tông, nhờ công ấy ông được phong làm Thượng phụ thái sư Hưng quốc công chưởng nội ngoại sự. Bây giờ, có người huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoa tên là Trịnh Kiểm đến yết kiến, Nguyễn Kim thấy có vẻ lạ, đem con gái Trịnh thị Ngọc Bảo gả cho và cho làm tướng quân. Năm 1540, Nguyễn Kim dẫn vua về Nghệ An, hào kiệt theo rất nhiều, năm 1543, lại dẫn quân về lấy đất Thanh Hóa. Năm 1545, vì bị Dương Chấp Nhất đầu độc, Nguyễn Kim qua đời, được vua phong làm Chiêu huân tĩnh công.
Bởi vậy, Nguyễn Hoàng được Nguyễn Ư Dĩ hết lòng bảo hộ, và khi lớn lên, thường được khuyến khích với những câu truyện xây dựng sự nghiệp. Khi làm quan cho triều Lê Nguyễn Hoàng được phong làm Hạ khê hầu, và cử quân đánh nhà Mạc, lúc ấy trong tay vua Mạc Phúc Hải (con trưởng Mạc Đăng Doanh). Nguyễn Hoàng chém được tướng là Trịnh Chí ở huyện Ngọc Sơn, và khi khải hoàn, còn được vua Lê Trang Tông khen rằng, “thực là cha hổ sinh con hổ”.
Xây dựng cơ đồ- Mở mang bờ cõi
Trấn thủ Thuận Hóa-Quảng Nam
Năm 1545, Vua Trang Tông phong Trịnh Kiểm, chồng của Ngọc Bảo (chị ruột Nguyễn Hoàng) làm Thái sư. Họa vô đơn chí trong cùng một năm, trước là cha bị đầu độc chết, giờ là anh bị giết chết. Người anh cả của Nguyễn Hoàng là Tả tướng Lãng quận công Nguyễn Uông bị đương kiêm Thái sư Trịnh Kiểm giết chết. Hơn nữa, vì mới được chiến công cao, công danh cao, được phong làm Đoan quận công, Nguyễn Hoàng còn bị lộ ra như cái gai trước mắt những kẻ hay ganh tị, nhất là nếu kẻ này là Thái sư Trịnh Kiểm.
Nhận thấy sự nguy hiểm này, nên Nguyễn Hoàng cáo bệnh, cốt giữ mình kín đáo hơn để Trịnh Kiểm khỏi nghi ngờ. Sau khi bàn mưu với cậu là Nguyễn Ư Dĩ, Nguyễn Hoàng ngầm sai sứ giả tới hỏi Trạng Trình. Nguyễn Bỉnh Khiêm, người làng Trung Am, xứ Hải Dương, đỗ Trạng nguyên triều Mạc, làm đến chức Thái bảo về trí sĩ, lúc đó đã có tiếng giỏi nghề thuật số. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn cái núi non bộ ở trước sân mà ngâm lớn rằng: Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân, nghĩa là: Một dải núi ngang có thể dung thân muôn đời được. Khi sứ giả về thuật lại câu ấy, Nguyễn Hoàng hiểu ý ngay.
Ông nhờ Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ ở Thuận Hoá (khu vực từ Quảng Bình đến Thừa Thiên-Huế ngày nay). Vùng đất Thuận Hóa bấy giờ mới được dẹp yên; Nhà Lê đã đặt Tam ty, phủ huyện để cai trị, nhưng lòng dân vẫn chưa yên; Trịnh Kiểm vẫn còn băng khoăn về vùng đất này. Nhưng nhận thấy Thuận Hóa là nơi xa xôi, đất đai cằn cỗi nên Trịnh Kiểm đã đồng ý, lên tâu vua Lê Anh Tông nên cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất đó (1558). Vua Lê nghe theo và trao cho trấn tiết, phàm mọi việc đều ủy thác, chỉ cần mỗi năm nộp thuế là đủ.
Theo Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, Trịnh Kiểm e sợ Nguyễn Hoàng mỗi ngày càng lớn, có lòng khoan hậu và chí lớn nên tìm cách ám hại. Bà Ngọc Bảo biết được, muốn cứu mạng em và cứu chồng khỏi tội sát nhân; bà khuyên chồng với lý do cho em trai ra trận và giữ vững vùng đất Thuận Quảng mới chiếm, Trịnh Kiểm đồng ý.
Năm 1558, Nguyễn Hoàng và gia quyến cùng các tướng Nguyễn Ư Dĩ, Mạc Cảnh Huống, Văn Nham, Thạch Xuyên, Tường Lộc, Thường Trung, Vũ Thì Trung, Vũ Thì An và hàng nghìn đồng hương thân tín Thanh – Nghệ đi vào Thuận Hóa. Khi đến nơi, đoàn thuyền đã đi vào cửa Việt Yên (nay là Cửa Việt), đóng trại tại Gò Phù Sa, xã Ái Tử, huyện Vũ Xương (nay là huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) và đã chọn nơi này để lập Thủ Phủ gọi là dinh Ái Tử. Lưu Thủ Thuận Hóa Tống Phước Trị (quê ở Tống Sơn, Thanh Hóa) đã dâng nộp bản đổ, sổ sách trong xứ cho Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng, và theo phò tá ông.
Mùa đông năm 1560, Nguyễn Hoàng cho đặt đồn cửa biển giữ miền duyên hải, do bấy giờ quân Mạc thường theo đường biến vào cướp Thanh Nghệ nên phải đề phòng. Tháng 3 năm 1568, Tổng trấn Quảng Nam là Bùi Tá Hán mất. Vua Lê lấy Nguyễn Bá Quýnh làm tổng binh thay giữ đất ấy. Năm 1569, Nguyễn Hoàng ra Thanh Hóa yết kiến Lê Anh Tông, nộp quân lương giúp Nam triều đánh nhà Mạc, rồi đến phủ Thái sư lạy mừng Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm hài lòng, phong cho ông trấn thủ luôn đất Quảng Nam, thay cho Quận Công Nguyễn Bá Quýnh. Nguyễn Hoàng làm Tổng Trấn Tướng Quân kiêm quản cả Xứ Quảng Nam và Xứ Thuận Hóa. Lệ mỗi năm phải nộp thuế là 400 cân bạc, 500 tấm lụa.
Tháng 1 năm 1570, Nguyễn Hoàng từ Tây Đô về, dời dinh về làng Trà Bát, nằm gần Ái Tử, chếch về phía đông bắc (nay là hai làng Trà Liên Đông, Trà Liên Tây, xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong). Gọi là Dinh Trà Bát.
Nhà Mạc giao tranh với họ Trịnh, Mạc Mậu Hợp sai Mạc Kính Điển đem thủy quân tấn công Nghệ An. Trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Bá Quýnh nghe tin trốn chạy. Nguyễn Hoàng kỷ luật rõ ràng, phòng giữ nghiêm ngặt, do đó quân nhà Mạc không dám phạm vào bờ cõi, nên riêng hai xứ Thuận Quảng được yên ổn.
Năm 1571, Tham đốc Mỹ Lương, thự vệ Văn Lan và Nghĩa Sơn định đánh úp Nguyễn Hoàng ở dinh Vũ Xương. Mỹ Lương sai Văn Lang và Nghĩa Sơn đem quân phục ở huyện Minh Linh rồi tự mình dẫn quân lẻn theo đường núi đến chỗ Cầu Ngói ở Hải Lăng mai phục, định ngày giáp đánh. Nguyễn Hoàng biết được tin ấy liền sai phó tướng Trương Trà đánh Nghĩa Sơn, và tự đem quân ngầm đến Cầu Ngói đánh úp Mỹ Lương và đốt trại. Mỹ Lương trốn chạy, bị đuổi chém được. Trà tiến quân đến xã Phúc Thị, đánh nhau với quân nổi loạn, bị Nghĩa Sơn bắn chết. Vợ Trà là Trần Thị nghe tin nổi giận, mặc quần áo đàn ông thúc quân đánh, bắn chết Nghĩa Sơn tại trận. Quân Văn lang thua, trốn về với Chúa Trịnh. Chúa đem quân về. Phong Trần thị làm quận phu nhân.
Năm 1572, nhân lúc Trịnh Kiểm mới mất, con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng đánh nhau, nhà Mạc sai đem tướng Lập Bạo đem 60 chiến thuyền đánh vào Thuận Hóa, đổ bộ lên làng Hồ Xá và ở làng Lạng Uyển (thuộc huyện Minh-linh) để tấn công phủ, dân ở Thuận Quảng nhiều người hàng. Ông mới sai một người con gái đẹp là Ngô thị giả làm cách đưa vàng bạc sang nói với Lập Bạo xin cầu hòa. Lập Bạo đồng ý giảng hòa, chỉ mang vài chục tùy tùng đến một ngôi đền tranh ở bờ sông ở đất Qua Qua để dự thề, Nguyễn Hoàng sai phục binh giết đi, và đánh tan quân nhà Mạc, từ đó nhà Mạc không dám nhòm ngó đất Thuận Quảng nữa. Quân Mạc đem nhau đầu hàng, Nguyễn Hoàng cho những binh lính đầu hàng ở đất Cồn Tiên, đặt làm 36 phường.
Tháng 3 năm 1586, vua Lê sai Hiến sát sứ Nguyễn Tạo đến xứ Thuận Quảng làm sổ kê khai ruộng đất cày cấy đề thu thuế. Tạo để cho các phủ huyện tự làm sổ, không đi khám đo đạc, làm sổ xong rồi đem về.
Thiết lập nền tảng độc lập
Năm 1600, sau khi từ Bắc trở về, ông dời dinh sang phía đông của dinh Ái Tử, gọi là Dinh Cát.
Năm 1602, Nguyễn Hoàng cho lập dinh Thanh Chiêm (Quảng Nam) giao cho công tử Nguyễn Phúc Nguyên làm trấn thủ. Cùng năm này, Chiêm Thành cử sứ sang thông hiếu. Năm 1604, Nguyễn Hoàng cho lập phủ Điện Bàn tách ra từ đất của phủ Triệu Phong của Xứ Thuận Hóa, lệ thuộc xứ Quảng Nam. Phủ Điện Bàn sát nhập với 3 phủ Thăng Hoa, phủ Tư Nghĩa và phủ Hoài Nhơn để thành lập Dinh Quảng Nam. Phủ Điện Bàn quản 5 huyện: Tân Phúc, An Nông, Hòa Vang, Diên Khánh, Phú Châu.
Xây dựng Dinh trấn tại Thanh Chiêm trên đất phủ Điện Bàn ở bên bờ bắc Sông Chợ Củi, tục gọi là Dinh Chiêm và cử công tử Nguyễn Phúc Nguyên làm quan trấn thủ.
Dinh trấn Thanh Chiêm có vai trò hết sức quan trọng dưới thời Nguyễn Hoàng cũng như thời kỳ các Chúa Nguyễn kế nghiệp, là cơ sở đào luyện các quốc vương của Đàng Trong (làm quan trấn thủ trước khi lên ngôi Chúa Nguyễn), là trung tâm điều hành việc phát triển và hậu cần kinh tế cho Đàng Trong, nhất là việc chỉ đạo hoạt động của thương cảng quốc tế Hội An, là bộ tham mưu đảm bảo an ninh cho Dinh Quảng Nam, góp phần quan trọng bảo vệ độc lập tự do và chủ quyền của Đàng Trong chống lại sự tấn công của Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và mở rộng bờ cõi về phương nam.
Năm 1609, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã cho xây dựng Chùa Kinh Thiên trên huyện Lệ Thủy ở Dinh Quảng Bình, Chùa Long Hưng bên cạnh Dinh trấn Thanh Chiêm trên huyện Diên Phước, Dinh Quảng Nam (về sau qua thời gian chùa bị hư hỏng) và Chùa Bảo Châu trên huyện Duy Xuyên, Dinh Quảng Nam (nơi về sau Thống Thái phó Mạc Cảnh Huống tu hành sau khi nghỉ hưu) về sau bị quân Tây Sơn phá hủy khi chiếm được Dinh Quảng Nam vào năm 1774.
Mở mang bờ cõi về phía Nam
Lãnh thổ mở rộng thời Nguyễn Hoàng, gần tương đương với tỉnh Phú Yên ngày nay.
Trên bản đồ có vị trí các địa danh: Đèo Cù Mông, Đèo Cả, Núi Đá Bia.
Năm 1578, quân Chiêm Thành kéo đến đánh phá, Nguyễn Hoàng cử Lương Văn Chánh đem quân tiến đến sông Đà Diễn, Hoa Anh đánh chiếm thành An Nghiệp, là một trong những kinh thành đồ sộ và kiên cố nhất trong lịch sử Chăm Pa.
Năm 1597, Lương Văn Chánh đang là tri huyện Tuy Viễn, trấn An Biên, nhận sắc lệnh của chúa Nguyễn Hoàng đưa chừng 4000 lưu dân vào khai khẩn vùng đất phía Nam của Đại Việt từ đèo Cù Mông (bắc Phú Yên) đến đèo Cả (bắc Khánh Hòa). Ông cùng lưu dân từng bước khẩn hoang, lập ấp; từng bước tạo nên những làng mạc đầu tiên trên châu thổ sông Đà Diễn, sông Cái.
Năm 1611, do quân Chăm Pa tiếp tục quấy nhiễu vùng biên giới Hoa Anh, Nguyễn Hoàng đã sai Văn Phong đi dẹp, quân Chăm Pa nhanh chóng bị đánh bại trước lực lượng của chúa Nguyễn. Vua Po Nit của Chăm Pa phải rút quân xuống phía Nam đèo Cả. Sau đó vùng đất Hoa Anh này được lập thành phủ Phú Yên gồm hai huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân, giao cho Lương Văn Chánh làm tham tướng, Văn Phong làm lưu thủ.
Cho tới khi ông mất, giang sơn họ Nguyễn trải dài từ đèo Ngang, Hoành Sơn (nam Hà Tĩnh) qua đèo Hải Vân tới núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn), gần đèo Cả, bây giờ là vùng cực nam Phú Yên, giáp tỉnh Khánh Hòa. Diện tích 2 xứ Thuận Quảng rộng khoảng 45000 km².
Không rõ vào năm nào, hai gia tướng người Việt gốc Chăm của Tĩnh Công Nguyễn Kim là Vũ Thì An và Vũ Thì Trung đã giúp Nguyễn Hoàng chiếm hữu Bãi Cát Vàng khi còn là một vùng đất vô chủ mà không một nước nào phản đối hay bảo lưu.
Qua đời
Năm 1613, ông lâm bệnh nặng, cho gọi người con thứ 6 Thụy quận công Nguyễn Phúc Nguyên từ Quảng Nam về kế vị và căn dặn:
Nếu Bắc tiến được thì tốt nhất, bằng không giữ vững đất Thuận Quảng và mở mang bờ cõi về phía nam.
Đất Thuận Quảng này phía bắc có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang, phía Nam có núi Hải Vân và Bi Sơn, thật là đất của người anh hùng dụng võ. Vậy con phải biết thương yêu dân, luyện tập binh sĩ để xây dựng cơ nghiệp muôn đời.
Ông cũng nói với các cận thần lúc hấp hối bên giường bệnh:
Ta với các ông cùng nhau cam khổ đã lâu, muốn dựng lên nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, các ông nên cùng lòng giúp đỡ, cho thành công nghiệp
Nguyễn Hoàng trấn thủ đất Thuận Quảng 55 năm, thọ 89 tuổi, vua Lê ban tước Cẩn nghĩa công, thụy là Cung Ý.
Ban đầu mộ của Nguyễn Hoàng táng ở vùng núi Thạch Hãn, huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong (nay thuộc huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị), về sau được cải táng lăng mộ chuyển về núi La Khê tức Khải Vận Sơn (nay thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế).
Ban đầu Nguyễn Hoàng được thờ tại chùa Long Phước (nay thuộc huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị), về sau được Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên phối thờ cùng Tĩnh Công Nguyễn Kim tại chùa Thiên Mụ ở Phú Xuân (nay là Thành phố Huế). Năm Giáp Tý, niên hiệu Gia Long năm thứ ba, 1804, vua Gia Long (1780 – 1820) cho dựng Thái Miếu rộng mười ba gian để thờ các Chúa Nguyễn và các công thần đời trước, chúa Tiên Nguyễn Hoàng cùng Hoàng hậu được thờ ở áng chính giữa. Vua Gia Long suy tôn cho Nguyễn Hoàng miếu hiệu là Thái Tổ, thụy hiệu là Triệu Cơ Tùy Thống Khâm Minh Cung Úy Cần Nghĩa Đạt Lý Hiển Ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia Dụ hoàng đế và miếu hiệu là Thái Tổ.
TỔNG QUAN VÀ NHỮNG ĐIỂM NỔI BẬT CỦA QUÂN 2
Quận 2 là một quận nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 2 là quận mới đô thị hóa, nơi có Khu đô thị mới Thủ Thiêm trong tương lai gần là trung tâm tài chính thương mại mới của Thành phố Hồ Chí Minh.
Vị trí địa lý Quận 2
- Quận 2 là một trong năm quận nằm ở phía Đông Bắc Thành phố Hồ Chí Minh:
- Phía Bắc giáp quận Thủ Đức.
- Phía Nam giáp sông Sài Gòn, ngăn cách với quận 7, sông Nhà Bè, ngăn cách với huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
- Phía Tây theo thứ tự từ Bắc xuống Nam lần lượt ngăn cách với quận Bình Thạnh, quận 1 và quận 4 bởi sông Sài Gòn.
- Phía Đông giáp quận 9.
Phân Chia hành chính Quận 2
Quận 2 được chia thành 11 phường: An Khánh, An Lợi Đông, An Phú, Bình An, Bình Khánh, Bình Trưng Đông, Bình Trưng Tây, Cát Lái, Thạnh Mỹ Lợi, Thảo Điền, Thủ Thiêm.
Trong đó, phường Thạnh Mỹ Lợi là trung tâm của quận.
Cơ Sở hạ tầng Quận 2
Hiện nay trên địa bàn quận 2 đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như khu đô thị Thủ Thiêm, khu đô thị Sala, khu đô thị Cát Lái, khu đô thị Palm City, khu đô thị Marina Bay Thủ Thiêm, khu đô thị Sarah Thảo Điền, khu đô thị Empire City Thủ Thiêm, khu đô thị Lake View City, khu đô thị Citi Bella, khu đô thị Cityland Bình Trưng Đông, khu đô thị Phố Đông Village, khu đô thị Citi Home, khu đô thị Ventura, khu đô thị Spring Life, khu đô thị An Phú – An Khánh…
Quận 2 từ lâu đã được nổi tiếng với công trình thế kỷ “Cầu Sài Gòn”
Vị trí địa lý Cầu Sài Gòn
Vị trí: Thành phố Hồ Chí Minh
Bắc qua: sông Sài Gòn
Thông số kỹ thuật:
- Kiểu cầu Cầu bê tông
- Vật liệu Bê tông
- Chiều dài 986,12 m
- Rộng 24 m
- Nhịp chính 267,45 m
Nhà thầu xây dựng cầu Sài Gòn
- Nhà thầu Johnson Drake and Piper
- Khởi công tháng 11, 1958
- Khánh thành 28 tháng 6 năm 1961
Lịch sử hình thành Cầu Sài Gòn
Cầu Sài Gòn (trước năm 1975 tên là cầu Tân Cảng) là một trong những cây cầu bắc qua sông Sài Gòn nối đường Điện Biên Phủ (quận Bình Thạnh) với Xa lộ Hà Nội (Quận 2), Thành phố Hồ Chí Minh. Cho đến khi đường hầm Thủ Thiêm được xây dựng xong thì đây vẫn là cửa ngõ chính để vào nội ô Thành phố Hồ Chí Minh từ các tỉnh miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Cầu được công ty Johnson Drake and Piper thi công từ tháng 11 năm 1958 đến ngày 28 tháng 6 năm 1961 thì hoàn thành. Cầu dài 986,12 m, gồm 32 nhịp, trong đó có 3 nhịp với chiều dài 267,45m. Cầu được sửa chữa 3 lần vào các năm 1995, 1996. Năm 1998, cầu được tiến hành nâng cấp và sửa chữa với tổng kinh phí 54 triệu franc từ nguồn vốn viện trợ của Pháp và đến tháng 6 năm 2000 thì hoàn thành. Sau khi nâng cấp, mặt cầu được mở rộng từ 19,63m lên 24m đạt tải trọng H30-XB80, có 4 làn xe, có tải trọng 32 tấn, đáp ứng nhu cầu giao thông ngày càng cao của thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 12/5/2011, công trình nâng cấp, sửa chữa cầu Sài Gòn do Công ty Freyssinet Việt Nam khởi công thực hiện. Cầu Sài Gòn được thi công các hạng mục như gia cường mặt bê-tông, nhịp thép, hệ thống đỡ nhịp treo, trụ đỡ, gia cố các mối nối, thay thế khe co giãn… trong thời gian 6 tháng với tổng mức kinh phí khoảng 64 tỷ đồng. Dự án nâng cấp, sửa chữa cầu Sài Gòn do Công ty Freyssinet Việt Nam làm tổng thầu theo hình thức EPC (chìa khóa trao tay), đảm nhiệm tất cả công đoạn từ lập dự án, thiết kế, cung cấp thiết bị, vật tư và xây dựng công trình. Sau khi nâng cấp, sửa chữa, cầu Sài Gòn được tăng tải đảm bảo theo tiêu chuẩn HL-93 không hạn chế tải trọng qua cầu.
Cầu Sài Gòn 2
Cầu Sài Gòn 2 do Công ty Cổ phần Đầu tư hạ tầng kỹ thuật TP Hồ Chí Minh thực hiện trong 18 tháng, khởi công xây dựng ngày 14/4/2012 hoàn thành ngày 15/10/2013. Cầu Sài Gòn 2 song song với cầu Sài Gòn 1 hiện hữu, cách khoảng 3m về phía hạ lưu, có tổng chiều dài hơn 987m, gồm 30 nhịp. Kết cấu nhịp chính được bố trí theo sơ đồ 5 nhịp liên tục bằng bê tông cốt thép dự ứng lực.
Dự án cầu Sài Gòn 2 đã được Công ty Cổ phần Đầu tư hạ tầng kỹ thuật TP.HCM lên kế hoạch hoàn thành trong vòng 21 tháng, rút ngắn tiến độ so với các đơn vị thiết kế trước đó. Và thực tế thi công đã rút xuống còn 18 tháng, tiết kiệm chi phí hàng trăm tỷ đồng cho ngân sách. Sau khi đưa vào sử dụng đã giải quyết triệt để điểm nghẽn ở cửa ngõ phía Đông Bắc của TP.HCM.
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Nguyễn Hoàng, Quận 2 nhận giao tận nhà khách hàng gồm 11 phường. Quý Khách hàng có nhu cầu sử dụng gas Gia Đình tại khu vực quận 2, vui lòng gọi chúng tôi qua số (028) 6683 6644.
Một Số công trình tiêu biểu tại Quận 2
Đường hầm sông Sài Gòn
Thông tin chung
- Tên cũ Hầm Thủ Thiêm
- Tên khác Hầm dìm Thủ Thiêm
- Dạng Bê tông cốt thép
- Địa điểm sông Sài Gòn
- Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
- Quốc gia Việt Nam
- Địa chỉ Nối quận 1 và quận 2 thành phố Hồ Chí Minh
Xây dựng
- Khởi công 2004
- Khánh thành 21/11/2011
- Nhà thầu chính Obayashi Corporation
- Chi phí xây dựng ban đầu 67,055 tỉ Yên tương đương 8.101,410 tỉ VND thời điểm năm 2000.
Kích thước
- Kích thước khác rộng 33,3 m
- Chiều dài = 1.490m
- Chiều cao 8.9 m
Đường hầm sông Sài Gòn (hay còn gọi là Hầm Thủ Thiêm) là một đường hầm vượt qua sông Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Đây là một phần trong dự án Đại lộ Đông Tây nối Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh với Khu đô thị mới Thủ Thiêm. Đường hầm có sáu làn xe ô tô, được dìm dưới lòng sông Sài Gòn (có ngầm đáy sông). Nguồn vốn đầu tư từ Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của chính phủ Nhật Bản có vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam. Tổng thầu thi công là liên doanh các nhà thầu Nhật Bản. Theo quy hoạch, Khu đô thị mới Thủ Thiêm được kết nối với đô thị hiện hữu bằng một số cây cầu như: Cầu Thủ Thiêm nối Quận Bình Thạnh, cầu Ba Son nối với Quận 1, Cầu Phú Mỹ nối với Quận 7 và một cây cầu nữa nối với Quận 4. Chiều ngày 20 tháng 11 năm 2011, lễ thông xe hầm Thủ Thiêm được tổ chức. Sáng ngày 21 tháng 11, hầm Thủ Thiêm chính thức được thông xe sau gần 7 năm thi công, kết nối hai bờ sông và giảm tải cho cầu Sài Gòn, đồng thời làm động lực cho sự phát triển của thành phố. Công trình được đánh giá là hầm vượt hiện đại nhất Đông Nam Á.
Tháng 5 năm 1997, sau cuộc hội thảo về dự án công trình vượt sông Sài Gòn qua Thủ Thiêm, thì phương án đường hầm ở vị trí đường Hàm Nghi được chọn và vị trí này được đánh giá là phù hợp với quy hoạch của Thành Phố.
Báo cáo nghiên cứu khả thi cuối cùng được duyệt vào tháng 6 năm 1997 với phương án xây dựng hầm qua sông Sài Gòn. Các đơn vị phối hợp thực hiện báo cáo nghiên cứu khả thi gồm công ty tư vấn Úc, G. Maunsell & Partners Ltd, công ty tứ vấn MVA, CES Enter, ngân hàng Sumitomo và AIC Maunsell, và JICA. Công việc xây dựng bị đình trệ đến năm 2004 do vướng các vấn đề về giải tỏa, đền bù và tái định cư các hộ dân trong khu vực dự án.
Thiết kế
Hầm được thiết kế gồm 6 làn xe (2 x 3 x 3,5m), từ cầu Calmette chìm xuống đáy sông Sài Gòn và nối với phía Thủ Thiêm tại đầu đường T13 với tổng chiều dài 1.490 m. Trong đó, lối vào hầm hai phía có dạng chữ U với tổng chiều dài 400 m; phần nhánh và miệng hầm hai phía dài 720 m; và phần hầm dìm dài 370 m. Phần hầm dìm được chia thành 4 đốt và được đúc riêng ở nơi khác, mỗi đốt nặng 27.000 tấn. Độ dốc hầm tối đa là 4%, đốt hầm làm bằng bê tông cốt thép. Hầm nằm dười đáy sông cách mặt nước 24 m, mặt cắt ngang rộng 33,3 m cao 8.9m bề dày đáy và nắp 1,5 m, bề dày vách hai bên 1m. Tốc độ xe lưu thông trong hầm đạt 60 km/giờ. Hầm có thể chịu được động đất 6 độ Richter và có tuổi thọ 100 năm.
Đánh giá về thiết kế
Báo cáo thẩm định của Viện Khoa học công nghệ xây dựng – Bộ Xây dựng (2003) cho rằng phương án thiết kế của nhà thầu Obayashi (Nhật) về gói thầu xây dựng hầm Thủ Thiêm có nhiều rủi ro. Theo đó, độ lún dự báo của công trình lớn, có khả năng gây nứt hỏng các đốt hầm trước khi đưa vào sử dụng và kiến nghị tìm phương án khác có độ tin cậy cao hơn. Về mặt tiếng ồn, do hầm bằng bê tông cốt thép có độ phẳng cao và được chôn sâu dưới lòng sông nên dòng xe qua lại sẽ tạo nên tiếng ồn khá lớn, Sở Giao thông Vận tải khuyến cáo người dân đi xe máy che kín tai và hạn chế chở trẻ em qua hầm.
Thi công
Hầm do nhà thầu chính thi công là Obayashi Corporation của Nhật Bản
Bể đúc hầm được đặt tại xã Phước Khánh, huyện Nhơn Trạch tỉnh Đồng Nai, ngay giáp sông Nhà Bè – đoạn trước khi sông Nhà Bè chia làm hai nhánh sông Lòng Tàu và Soài Rạp
Hầm được chia làm 5 đốt 4 đốt dài 92.4m và một đốt (End-unit) dài 3.5m
Các sự cố
Tháng 5-2008, theo báo cáo kết quả kiểm tra của Hội đồng nghiệm thu nhà nước về chất lượng công trình đại lộ Đông – Tây, hàng loạt vết nứt nứt trên tường và bản nắp trên các đốt hầm đã được ghi nhận. Các vết nứt ở thành tường thẳng đứng kéo dài từ 2m – 3m, bề rộng lớn nhất của vết nứt rộng đến 1 mm (theo tiêu chuẩn JSCE 2002 do nhà thầu Obayashi đưa ra thì mức độ bề rộng vết nứt cho phép đối với hầm là dưới 0,28 mm). Các vết nứt cũng xuất hiện ở vị trí giữa các phân đoạn đổ bê tông của mỗi đốt hầm. Các vết nứt này thẳng đứng kéo dài gần như hết chiều cao đốt hầm, bề rộng vết nứt đến 0,3 mm. Các vết nứt này được khắc phục bằng cách bơm keo epoxy đối với những vết nứt có chiều rộng lớn hơn 0.15mm và phủ keo epoxy lên bề mặt vết nứt có chiều rộng nhỏ hơn 0.15mm.
Hoàn thành
Chiều 20 tháng 11 năm 2011, lễ thông xe hầm Thủ Thiêm được tổ chức tại hai đầu hầm. Thành phần khách mời gồm khoảng 500 lãnh đạo của Việt Nam và Nhật Bản, lãnh sự quán các nước tại Thành phố Hồ Chí Minh cùng các tập đoàn đầu tư nước ngoài.
Từ 6 giờ sáng ngày 21 tháng 11, hầm Thủ Thiêm chính thức được thông xe.
Vấn đề an toàn
90 lính cứu hỏa, 10 xe đặc chủng và một tàu chữa cháy sẽ túc trực ngày đêm để hỗ trợ cho khu vực hầm khi cần thiết. Một số phương tiện và thời gian sử dụng hầm bị hạn chế để đảm bảo độ an toàn. Ngoài ra, việc lưu thông qua hầm phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về tốc độ, đèn chiếu sáng và âm thanh. Trong hầm còn được thiết kế hệ thống báo cháy tự động và hệ thống chữa cháy phân bố dọc hầm, 41 loa phát thanh và 20 camera theo dõi. Toàn bộ hầm được thiết kế 38 cửa thoát nạn.
Tầm ảnh hưởng
Hầm Thủ Thiêm là hạng mục quan trọng nhất trong dự án đại lộ Đông – Tây. Bên cạnh việc giải toả áp lực cho cầu Sài Gòn, tuyến đường mới qua hầm rút ngắn thời gian từ trung tâm thành phố về các tỉnh miền Tây lẫn miền Đông, tạo nền tảng phát huy giao thương liên tỉnh. Hầm Thủ Thiêm góp phần lớn trong việc tạo thành mạng lưới giao thông khá hoàn chỉnh ở phía đông, giảm áp lực cho giao thông trung tâm và là động lực phát triển Khu đô thị mới Thủ Thiêm. Số lượng đền bù giải tỏa ở dự án này được đánh giá là có quy mô lớn nhất thành phố. Dự án hầm Thủ Thiêm đã cải thiện cuộc sống của hàng chục ngàn cư dân ven kênh rạch vào năm khu tái định cư và nhiều khu dân cư khác.Theo dự kiến, mỗi ngày hầm sẽ có 40.000 ôtô và 10.000 xe máy tham gia lưu thông.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN QUẬN 2
Địa bàn quận 2 từ năm 1997 đến nay khác hẳn với quận 2 cũ trước năm 1976. Trong giai đoạn 1967-1976, một phần nhỏ địa bàn quận 2 ngày nay chính là quận 9 (quận Chín) cũ của Đô thành Sài Gòn và sau đó là Thành phố Sài Gòn – Gia Định. Quận 9 khi đó gồm 02 phường: An Khánh và Thủ Thiêm (nay là các phường An Khánh, Bình An, Bình Khánh, Thủ Thiêm, An Lợi Đông).
Quận 2 cũ, trước năm 1976
Thời Pháp thuộc
Tháng 9 năm 1889, thành phố Sài Gòn được chia thành hai quận cảnh sát (arrondissement policier): Quận 1 và Quận 2, đứng đầu mỗi quận cảnh sát là vị Quận trưởng cảnh sát (Commissaire).
Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh hợp nhất thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn thành một đơn vị hành chính mới gọi là Khu (một số tài liệu gọi là “Địa phương”) Sài Gòn – Chợ Lớn (Région Saigon – Cholon ou Région de Saigon – Cholon). Quận 2 thuộc Khu Sài Gòn – Chợ Lớn.
Ngày 30 tháng 6 năm 1951, Thủ tướng chính quyền Quốc gia Việt Nam ký sắc lệnh số 311-cab/SG đổi tên Khu Sài Gòn – Chợ Lớn thành Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn. Lúc này, quận 2 thuộc Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn.
Thời Việt Nam Cộng hòa
Theo sắc lệnh số 143/NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn. Khi đó, quận 2 lại thuộc Đô thành Sài Gòn.
Ngày 27 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 110-NV về việc phân chia sáu quận đang có thành tám quận mới: Nhứt, Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy và Tám (trừ ba quận: Nhứt, Nhì, Ba giữ nguyên, các quận còn lại đều đổi tên và thay đổi địa giới hành chính). Lúc này, quận 2 (quận Nhì) trùng với địa giới quận Nhì cũ; có 04 phường: Chợ Bến Thành, Cầu Ông Lãnh, Cầu Kho, Nhà thờ Huyện Sĩ.
Năm 1962, quận Nhì lập thêm 03 phường: Bùi Viện, Nguyễn Cảnh Chân và Nguyễn Cư Trinh. Như thế lúc này quận có 07 phường.
Năm 1972, đổi tên phường Chợ Bến Thành của quận Nhì thành phường Bến Thành.
Cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, quận 2 (quận Nhì) gồm 07 phường: Bến Thành, Bùi Viện, Cầu Ông Lãnh, Cầu Kho, Nhà thờ Huyện Sĩ, Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Cư Trinh.
Giai đoạn 1975-1976
Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn – Gia Định được thành lập. Lúc này, quận 2 (quận Nhì) thuộc thành phố Sài Gòn – Gia Định cho đến tháng 5 năm 1976. Đồng thời, có những điều chỉnh do phường hiện hữu có diện tích quá nhỏ hoặc tương đối ít dân cư như, trong đó quận Nhì sáp nhập phường Bến Thành vào phường Nhà thờ Huyện Sĩ, phường mới mang tên phường Huyện Sĩ. Như thế lúc này quận Nhì còn 06 phường.
Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh thành phố Sài Gòn – Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban Nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn – Gia Định). Theo đó, quận Nhất và quận Nhì cũ hợp nhất lại thành quận 1 cho đến ngày nay. Như vậy quận 2 cũ bị giải thể vào năm 1976.
Quận 2 mới, từ năm 1997 đến nay
Ngày 6 tháng 1 năm 1997, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 03-CP về việc thành lập các quận, phường mới thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung về việc thành lập Quận 2 và các phường thuộc Quận 2 như sau:
- Thành lập Quận 2 trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các xã An Phú, An Khánh, Thủ Thiêm, Bình Trưng, Thạnh Mỹ Lợi thuộc huyện Thủ Đức.
- Quận 2 có 5.020 ha diện tích tự nhiên và 86.027 nhân khẩu.
- Thành lập các phường thuộc Quận 2 như sau:
- Thành lập phường An Phú trên cơ sở 1.042 ha diện tích tự nhiên và 6.724 nhân khẩu của xã An Phú. Phường An Phú có 1.042 ha diện tích tự nhiên và 6.724 nhân khẩu.
- Thanh lập phường Thảo Điền trên cơ sở 375 ha diện tích tự nhiên và 6.714 nhân khẩu của xã An Phú. Phường Thảo Điền có 375 ha diện tích tự nhiên và 6.714 nhân khẩu.
- Thành lập phường An Khánh trên cơ sở 169 ha diện tích tự nhiên và 12.865 nhân khẩu của xã An Khánh. Phường An Khánh có 169 ha diện tích tự nhiên và 12.865 nhân khẩu.
- Thành lập phường Bình Khánh trên cơ sở 226 ha diện tích tự nhiên và 6.580 nhân khẩu của xã An Khánh. Phường Bình Khánh có 226 ha diện tích tự nhiên và 6.580 nhân khẩu.
- Thành lập phường Bình An trên cơ sở 169 ha diện tích tự nhiên và 6.774 nhân khẩu của xã An Khánh. Phường Bình An có 169 ha diện tích tự nhiên và 6.774 nhân khẩu.
- Thành lập phường Thủ Thiêm trên cơ sở 135 ha diện tích tự nhiên và 9.325 nhân khẩu của xã Thủ Thiêm. Phường Thủ Thiêm có 135 ha diện tích tự nhiên và 9.325 nhân khẩu.
- Thành lập phường An Lợi Đông trên cơ sở 385 ha diện tích tự nhiên và 5.068 nhân khẩu của xã Thủ Thiêm. Phường An Lợi Đông có 385 ha diện tích tự nhiên và 5.068 nhân khẩu.
- Thành lập phường Bình Trưng Tây trên cơ sở 222 ha diện tích tự nhiên và 7.832 nhân khẩu của xã Bình Trưng. Phường Bình Trưng Tây có 222 ha diện tích tự nhiên và 7.832 nhân khẩu.
- Thành lập phường Bình Trưng Đông trên cơ sở 345 ha diện tích tự nhiên và 10.496 nhân khẩu của xã Bình Trưng. Phường Bình Trưng Đông có 345 ha diện tích tự nhiên và 10.496 nhân khẩu.
- Thành lập phường Cát Lái trên cơ sở 669 ha diện tích tự nhiên và 6.567 nhân khẩu của xã Thạnh Mỹ Lợi. Phường Cát Lái có 669 ha diện tích tự nhiên và 6.567 nhân khẩu.
- Thành lập phường Thạnh Mỹ Lợi trên cơ sở 1.283 ha diện tích tự nhiên và 7.091 nhân khẩu của xã Thạnh Mỹ Lợi. Phường Thạnh Mỹ Lợi có 1.283 ha diện tích tự nhiên và 7.091 nhân khẩu.
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Nguyễn Hoàng, Quận 2 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách gồm 11 phường, phục vụ giao gas trên mọi nẻo đường của Quận 2. Khách hàng có nhu cầu sử dụng gas Gia Đình tại Quận 2, xin vui lòng gọi qua số (028) 6683 6644
|
|
|
|
TỔNG ĐÀI TIẾP NHẬN GIAO GAS (028) 6683 6644
Giao Gas 24 quận huyện Tp. Hồ Chí Minh