Gas Bình Minh Đường Nguyễn Tri Phương Quận 10 chuyên giao lẻ gas Bình Minh dân dụng 12kg tại nhà cho hộ gia đình, chung cư, căn hộ, chung cư cao cấp và giao sỉ gas Bình Minh dân dụng 12kg – gas Bình Minh công nghiệp 45kg cho quán ăn, nhà hàng, khách sạn, quán nhậu, văn phòng công ty, căn tin, bếp ăn công nghiệp… tại Quận 10, Tp. Hồ Chí Minh. Khách hàng có nhu cầu đổi gas Bình Minh vui lòng gọi (028) 6683 6644
Gas Bình Minh Đường Nguyễn Tri Phương Quận 10 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách
Gas Bình Minh Đường Nguyễn Tri Phương Quận 10 cung cấp dịch vụ giao gas nhanh và chất lượng. Gas là một sản phẩm gắn liền với cuộc sống hàng ngày, được sử dụng rộng rãi trong hộ gia đình, nhà hàng, khách sạn, quán ăn, căn tin, chung cư, căn hộ cao cấp,… và được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau: nấu ăn, phục vụ kinh doanh, sử dụng trong xưởng sản xuất,… Cho nên, Đại lý Gas Bình Minh Đường Nguyễn Tri Phương Quận 10 đã triển khai cung cấp dịch vụ Giao Gas Tận Nơi để phục vụ người tiêu dùng Nhanh Chóng và An Toàn Nhất.
Gas Bình Minh Đường Nguyễn Tri Phương Quận 10 với dịch vụ giao gas chuyên nghiệp
Gas Bình Minh Đường Nguyễn Tri Phương Quận 10 giao gas nhanh và an toàn
- Luôn chủ động giao gas nhanh nhất đến nhà khách hàng.
- Luôn giao gas Bình Minh chính hãng, có thương hiệu đảm bảo chất lượng.
- Luôn cân bình gas tại nhà khách hàng, đảm bảo đủ ký.
- Luôn kiểm tra rò rỉ gas mỗi khi giao gas để đảm bảo an toàn cho khách hàng.
Giao Gas Bình Minh Chính Hãng |
Gas Bình Minh Luôn Cân Gas Tại Nhà |
Gas Bình Minh Đường Nguyễn Tri Phương Quận 10 luôn có hậu mãi chu đáo
- Có đội ngũ bảo trì định kỳ bếp gas, van gas, dây dẫn gas hoàn Toàn miễn phí.
- Sửa bếp gas miễn phí cho khách hàng trong suốt quá trình sử dụng.
- Được đội ngũ của đại lý gas Bình Minh giao tận nhà.
- Hệ Thống giao gas 24 quận huyện Tp.Hồ Chí Minh.
- Khách hàng có nhu cầu ký hợp đồng, sử dụng số lượng nhiều, vui lòng liên hệ tổng đài (028) 6683 6644 để có chính sách giá tốt nhất.
Những sản phẩm đại lý Gas Bình Minh Đường Nguyễn Tri Phương Quận 10 bán nhiều nhất:
Gas Gia Đình Vàng |
Gas Gia Đình Xám |
Gas Bình Minh Vàng |
GIỚI THIỆU VỀ GAS BÌNH MINH
- Gas Bình Minh hiện là công ty dẫn đầu trong lĩnh vực bán lẻ khí hóa lỏng (LPG) tại Việt Nam và đến nay đã trở thành thương hiệu quen thuộc với nhiều khách hàng tại Tp. HCM & các tỉnh Miền Đông và Miền Tây.
- Gas Bình Minh đã đạt được danh hiệu: “Thương hiệu Việt được yêu thích nhất” do đọc giả Báo SGGP bầu chọn (2011, 2012) và nằm trong TOP 500 doanh nghiệp phát triển nhanh nhất Việt Nam 2012 (VNR 500, 2012)
- Gas Bình Minh cam kết mang đến cho khách hàng những sản phẩm an toàn, đúng giá niêm yết, đúng chất lượng, đủ trọng lượng cùng những dịch vụ hậu mãi chu đáo.
Gas Bình Minh top 500 doanh nghiệp phát triển và là thương hiệu Việt được người tiêu dùng yêu thích
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GAS BÌNH MINH
- Từ năm 1993 là Doanh Nghiệp Tư Nhân Gas & Bếp Gas.
- Đến năm 2001 Thành lập Công ty TNHH Gas Bình Minh.
- Đến năm 2005 Ra đời Siêu Thị Bếp Gas đầu tiên tại Việt Nam với sự hợp tác của các thương hiệu bếp Gas hàng đầu: Rinnai, GoldSun, SoGo, BlueStar…
- Đến năm 2007 Phát triển hệ thống bán lẻ Gas Bình Minh – một trong những hệ thống bán lẻ gas & bếp gas chuyên nghiệp và tiên phong tại Tp. HCM.
- Đến năm 2008 Thành lập các chi nhánh tại các tỉnh miền Đông và miền Tây, chính thức mở rộng hệ thống bán lẻ đến các tỉnh.
- Chuyển sang mô hình Công ty Cổ Phần vào tháng 11/2013, để chuẩn bị cho kế hoạch phát triển. Chính thức đổi tên thành Công ty Cổ Phần Thương Mại Gas Bình Minh.
- Hiện tại: Gas Bình Minh đang là Hệ thống các cửa hàng bán lẻ gas / bếp gas chuyên nghiệp lớn nhất Việt Nam với 87 cửa hàng (53 cửa hàng tại Tp. HCM, 19 cửa hàng tại Miền Đông và 16 cửa hàng tại Miền Tây).
- Gas Bình Minh hiện là công ty dẫn đầu trong lĩnh vực bán lẻ khí hóa lỏng (LPG) tại Việt Nam và đến nay đã trở thành thương hiệu quen thuộc với nhiều khách hàng tại Tp. HCM & các tỉnh Miền Đông và Miền Tây.
- Gas Bình Minh đã đạt được danh hiệu: “Thương hiệu Việt được yêu thích nhất” do đọc giả Báo SGGP bầu chọn (2011, 2012) và nằm trong TOP 500 doanh nghiệp phát triển nhanh nhất Việt Nam 2012 (VNR 500, 2012)
- Gas Bình Minh cam kết mang đến cho khách hàng những sản phẩm an toàn, đúng giá niêm yết, đúng chất lượng, đủ trọng lượng cùng những dịch vụ hậu mãi chu đáo.
Để biết thông tin chi tiết về gas Bình Minh, giá bán các loại gas Bình Minh dân dụng, gas Bình Minh công nghiệp, chính sách giao gas, chính sách hậu mãi. Quý khách vui lòng liên hệ qua số (028) 6683 6644 |
Nguyễn Tri Phương là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn
Nguyễn Tri Phương (1800-1873) là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các mặt trận Đà Nẵng (1858), Gia Định (1861) và Hà Nội (1873).
Thân thế và sự nghiệp
Nguyễn Tri Phương tên cũ là Nguyễn Văn Chương, tự Hàm Trinh, hiệu là Đường Xuyên, sinh ngày 21 tháng 7 năm Canh Thân(9 tháng 9 năm 1800), quê làng Đường Long (Chí Long), xã Điền Lộc, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ông xuất thân trong một gia đình làm ruộng và nghề thợ mộc. Nhà nghèo lại không xuất thân từ khoa bảng nhưng nhờ ý chí tự lập ông đã làm nên cơ nghiệp lớn.
Năm Quý Mùi (1823), vua Minh Mạng đề bạt ông hàm Điển bộ (Bí thư ở Nội điện), năm sau thăng Tu soạn, rồi Thừa chỉ ở Nội các, hai năm sau thăng Thị độc, Thị giảng học sĩ, năm 1831 thăng Hồng Lô tự khanh.
Năm 1832, ông được sung vào phái bộ sang Trung Quốc về việc thương mại. Năm 1835 ông nhận lệnh vua Minh Mạng vào Gia Định cùng Trương Minh Giảng bình định các vùng mới khai hoang. Việc thành công ông được thăng hàm Thị lang.
Năm 1837, ông bị triều thần dèm pha, nên bị giáng xuống làm thơ lại ở bộ Lại. Cuối năm, ông được khôi phục hàm Chủ sự, sung chức Lang trung. Năm sau ông thăng Thị lang bộ Lễ, năm 1839 thăng hàm Tham tri, làm việc ở Nội các.
Năm Canh Tý (1840), ông được bổ làm Tuần phủ Nam Ngãi (Quảng Nam và Quảng Ngãi), trông coi bố phòng cửa biển Đà Nẵng. Công việc hoàn thành tốt đẹp, ông được triệu về kinh thăng Tham tri bộ Công, được vua Thiệu Trị cử làm Tổng đốc Long Tường (Vĩnh Long và Định Tường). Tại đây, ông dẹp tan được các toán giặc cướp nước ngoài vào quấy phá. Tháng 5 âm năm 1844, ông được cải bổ Tổng đốc An Hà (An Giang, Hà Tiên). Năm 1845, ông cùng với Doãn Uẩn đánh bại quân Xiêm La của tướng Bodin, bình định Cao Miên, ổn định hoàn toàn vùng biên giới Tây Nam thuộc miền Tây Nam bộ. Sau, thăng Khâm sai quân thứ đại thần Trấn Tây hàm Tòng Hiệp Biện Đại học sĩ (tháng 9 âm/1845), rồi được thưởng danh hiệu “An Tây trí dũng tướng” (tháng 2 âm/1847).
Tháng 5 năm 1847, ông được triệu về kinh, thăng hàm Chánh Hiệp biện đại học sĩ, lãnh Thượng thư bộ Công đại thần Cơ mật viện, tước Tráng Liệt tử và được ban một Ngọc bài có khắc bốn chữ “Quân kỳ thạc phụ”, được chép công trạng vào bia đá ở Võ miếu (Huế). Sau khi vua Thiệu Trị mất, ông được đình thần tôn làm Phụ chính Đại thần (theo di chiếu).
Năm Mậu Thân (1848), vua Tự Đức phong tước cho ông là Tráng Liệt bá. Cùng năm đó, cha ông qua đời. Ông xin về cư tang, nhưng vì đang làm Phụ chính nên chỉ được nghỉ một thời gian ngắn phải ra làm việc tại triều đình.
Năm Canh Tuất (1850), vua Tự Đức chuẩn phê cải tên ông là Nguyễn Tri Phương. Từ đó tên Nguyễn Tri Phương trở thành tên chính của ông. Sau đó ông được sung chức Khâm sai Tổng thống Quân vụ Đại thần các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên. Năm 1853, ông được thăng Điện hàm Đông các Đại học sĩ, rồi lãnh chức Kinh lược sứ Nam Kỳ. Trong thời gian này, ông có công lập được nhiều đồn điền, khai khẩn đất hoang, dân cư ở địa phương được an cư lập nghiệp.
Thống lĩnh quân sự chống Pháp
Năm Mậu Ngọ (1858), tàu chiến Pháp đến uy hiếp Đà Nẵng, vua Tự Đức cử ông làm Quân thứ Tổng thống đại thần trực tiếp chỉ huy quân đội chống lại. Với vũ khí tối tân, Pháp đã uy hiếp và phá hủy một số lớn đồn lũy của Việt Nam, ông bị triều đình giáng cấp nhưng vẫn lưu tại chức. Tuy nhiên, do công cuộc kế hoạch phòng thủ của Nguyễn Tri Phương chu đáo nên quân Pháp không thể tiến lên được.
Năm 1859, Pháp chuyển hướng đánh thành Gia Định, quân nhà Nguyễn không rõ thương vong nhưng tan rã gần hết. Thành bị hạ, Hộ đốc thành Gia Định là Võ Duy Ninh tự vẫn. Sau đó, Pháp đã cho phá hủy thành Gia Định. Năm 1860, Nguyễn Tri Phương được sung chức Gia Định quân thứ, Thống đốc quân vụ cùng Tham tán đại thần Phạm Thế Hiển trông coi việc quân sự ở miền Nam.
Nguyễn Tri Phương chủ trương huy động từ 15.000 đến 20.000 quân; nhưng không tập trung quân ở một nơi, mà chia thành ba đạo: một đạo chính đóng tại đồn Phú Thọ, chỗ quân thứ Gia Định hiện đóng; một đạo đóng ở phủ hạt Tân An; một đạo đóng ở tỉnh hạt Biên Hòa. Ông hạ lệnh phòng thủ các đường sông, ngòi lớn nhỏ, vừa đánh và giữ, dần dần đắp thêm đồn lũy tiến sát đến chỗ địch đóng quân. Trang bị cho quân đội cần từ 20 đến 30 cổ súng loại lớn, đường kính nòng từ 2 tấc 9 phân trở lên. Do không nắm vững tình hình quân sự và chính trị của Pháp, Nguyễn Tri Phương đã chủ trương xây dựng đại đồn Chí Hòa (về sau người Pháp gọi là Kỳ Hòa) để bao vây, bức rút quân Pháp. Tuy nhiên, sau vào ngày 25 tháng 10 năm 1861, quân Pháp đã tiến hành công phá đại đồn. Ông chỉ huy quân lính chống cự quyết liệt nhưng rồi bị thương, đại đồn thất thủ, Gia Định lại bị chiếm. Em ruột ông là Nguyễn Duy tử trận, ông bị cách chức xuống làm Tham tri, mãi đến năm sau lại được hàm Binh bộ Thượng thư, sung Đổng nhung quân vụ Biên Hòa, tập hợp lực lượng để chống sự bành trướng của quân đội Pháp.
Năm 1862, sau khi triều đình Huế Hòa ước Nhâm Tuất, mất 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ vào tay Pháp, ông được cử ra Bắc làm Tổng thống Hải An quân vụ, thăng chức Võ Hiển Đại học sĩ, tước Tráng Liệt Bá. Năm Nhâm Thân (1872), lại được điều về giữ chức Tuyên sát đổng sức đại thần, thay mặt triều đình xem xét việc quân sự ở Bắc Kỳ.
Đánh dẹp giặc cướp trên đất Bắc
Từ năm 1863, ông được cử ra Bắc Kỳ đánh dẹp quân Lê Duy Phụng.
Năm Tự Đức thứ 25 (1870), quân Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc vẫn đánh phá cướp bóc các tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Trong 3 năm trường chúng vẫn uy hiếp các tỉnh này và quan quân liên tục thất bại.
Sau khi quan Tổng đốc Phạm Chi Hương bại trận và bị bắt, triều đình đã phái Võ Trọng Bình ra làm Tổng đốc Hà Ninh kiêm Khâm sai Quân thứ đại thần Tuyên-Thái-Lạng. Quan Khâm sai hội với quan Đề đốc Quảng Tây để cùng đánh quân Ngô Côn vì họ cứ quấy phá cả hai bên biên thùy. Vào giữa năm 1869, Ngô Côn đem quân đánh Bắc Ninh, quan Tiểu phủ Ông Ích Khiêm đánh thắng một trận lớn, phá tan quân giặc và Ngô Côn bị bắn chết.
Ngô Côn chết rồi thì đồng đảng chia làm 3 phe tiếp tục cướp phá các tỉnh mạn ngược ở miền Bắc: phe Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc, phe Cờ Vàng của tướng Hoàng Sùng Anh, phe Cờ Trắng của Bàn Văn Nhị và Lương Văn Lợi.
Quan Trung quân Đoàn Thọ được gửi từ Kinh ra làm Tổng thống quân vụ Bắc Kỳ. Ông liền kéo quân lên Lạng Sơn. Bọn giặc Khách là Tô Tứ thình lình nổi lên nửa đêm vào chiếm thành giết chết Đoàn Thọ. Võ Trọng Bình may mắn chạy thoát được. Triều đình Huế lại sai Hoàng Kế Viêm ra làm Thống đốc quân vụ Lạng-Bình-Ninh-Thái cùng với Tán tương Tôn Thất Thuyết tìm cách dẹp giặc cho yên. Tiếp theo vua lại sai ông Lê Tuấn là Thượng thơ Hình bộ ra làm Khâm sai thị sự để giúp Hoàng Kế Viêm. Rồi Hoàng Kế Viêm giữ mạn Sơn Tây, Lê Tuấn trấn đóng ở Hải Dương. Tuy vậy tình hình vẫn lằng nhằng không giải quyết thanh thỏa được.
Vua Tự Đức quá lo lắng, lại phải vời Nguyễn Tri Phương cho làm chức Tam tuyên quân thứ Khâm mạng Đại thần, được phép tùy nghi lo việc đánh dẹp cho yên. Vua ban cho ông kỳ bài, ấn kiếm, cờ mao tiết, nhung y, v.v. Đến miền Bắc, ông và Hoàng Kế Viêm chủ trương chia để trị, thu phục quân Cờ Đen vì lực lượng này mạnh nhất và dùng nó để chế ngự các nhóm khác. Vua Tự Đức bằng lòng và ban cho Lưu Vĩnh Phúc chức Đề đốc với nhiệm vụ tuần phòng ở biên cảnh. Chính sách này tỏ ra có hiệu quả, quân Cờ Đen giúp sức đánh quân Cờ Vàng, Cờ Trắng và sau này tham gia đánh Pháp.
Năm Tự Đức thứ 24 (1871) vua xuống dụ chuẩn cho ông khôi phục nguyên hàm Thái tử Thái bảo Võ hiển điện Đại học sĩ Trí dõng tướng Tráng liệt bá, nhưng vẫn sung Tam tuyên quân thứ Khâm mạng Đại thần.
Quân Pháp tấn công thành Hà Nội
Garnier chuyển quân ra bắc thành hai đợt, đợt đầu 83 lính, đợt hai thêm 88 lính và hai pháo thuyền (kể cả số thủy thủ và thủy binh). Tới ngày 5 tháng 11 ông ta đã đến Hà Nội trên tàu hơi nước của Dupuis, do Dupuis đi đón dọc đường. Cộng với thuộc hạ của Dupuis, gồm có 10 người Âu, 30 người Á, 150 lính đánh thuê Vân Nam và một số lính Cờ vàng, Garnier chuẩn bị đánh chiếm thành Hà Nội sau khi nhận thấy các yêu sách của mình không đe dọa được Nguyễn Tri Phương.
Đêm ngày 19, rạng sáng ngày 20 tháng 11 năm 1873, Garnier đánh úp thành Hà Nội. Quân Pháp bất ngờ đánh chiếm vòng phòng thủ bên ngoài của hai cửa phía nam, và vượt qua cầu trước khi quân trú phòng kịp bắn xuống. Đồng thời, pháo từ các pháo thuyền cũng bắn lên, khiến cho binh lính phòng thủ, do không quen với đạn pháo, bỏ chạy tán loạn khỏi thành theo cửa tây. Cùng lúc đó, hỏa lực quân Pháp cũng bắn vỡ cửa nam, và chỉ trong một giờ, quân Pháp đã treo cờ tam tài lên vọng lâu thành Hà Nội. Hơn hai nghìn quân triều đình bị bắt làm tù binh, về phía quân Pháp, chỉ có một người lính đánh thuê Vân Nam của Dupuis bị giết do một viên sĩ quan Pháp bắn nhầm.
Con trai Nguyễn Tri Phương là Phò mã Nguyễn Lâm bị trúng đạn chết tại trận, Nguyễn Tri Phương cũng bị trọng thương. Ông được lính Pháp cứu chữa, nhưng ông khẳng khái từ chối và nói rằng: “Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống, sao bằng thung dung chết về việc nghĩa” Sau đó, ông tuyệt thực gần một tháng và mất vào ngày 20 tháng 12 năm 1873 (1 tháng 11 Âm lịch), thọ 73 tuổi. Thi hài ông và Nguyễn Lâm được đưa về an táng tại quê nhà. Đích thân vua Tự Đức tự soạn bài văn tế cho ba vị công thần (Nguyễn Duy, Nguyễn Lâm, Nguyễn Tri Phương) và cho lập đền thờ Nguyễn Tri Phương tại quê nhà.
GIỚI THIỆU VỀ QUẬN 10 – TP. HỒ CHÍ MINH
Quận 10 là một quận nội thành trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 10 có địa hình tương đối bằng phẳng, cao trên 2 mét so với mực nước biển. Được thành lập năm 1969, đây là quận có nhiều địa điểm tham quan, di tích lịch sử, văn hoá, tôn giáo… nổi tiếng.
Vị trí địa lý Quận 10
Quận 10 là một trong những quận nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu kinh tế, văn hóa xã hội với các quận trung tâm và ngoại thành, là cơ hội để thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của quận. Địa bàn Quận 10, có giáp ranh như sau:
- Phía Bắc giáp Quận Tân Bình, giới hạn bởi đường Bắc Hải
- Phía Nam giáp Quận 5, giới hạn bởi đường Hùng Vương và đường Nguyễn Chí Thanh
- Phía Đông giáp Quận 3, giới hạn bởi đường Cách mạng tháng Tám, Điện Biên Phủ và đường Lý Thái Tổ
- Phía Tây giáp Quận 11, giới hạn bởi đường Lý Thường Kiệt
Tổ chức hành chính tại Quận 10
- Quận được chia làm 15 phường: Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7, Phường 8, Phường 9, Phường 10, Phường 11, Phường 12, Phường 13, Phường 14, Phường 15.
- Trong đó, phường 14 là trung tâm của quận.
Quận 10 với tiềm năng kinh tế lớn
- Quận 10 là một trong những quận trung tâm của Thành phố Hồ Chí Minh và là một trọng điểm giao dịch thương mại của thành phố. Ngành thương mại – dịch vụ có tốc độ phát triển nhanh, với nhiều loại hình thương mại – dịch vụ cao cấp và đa dạng tạo được sự thu hút đầu tư của các doanh nghiệp tham gia đầu tư phát triển.
- Tổng số vốn đầu tư của các công ty, doanh nghiệp tư nhân và các cơ sở cá thể đạt gần 700 tỷ đồng; giá trị thương mại chiếm tỷ lệ khá cao, sản lượng kinh tế thương mại quốc doanh chiếm từ 60 – 80%.
- Tốc độ tăng trưởng trên lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp bình quân hằng năm luôn vượt chỉ tiêu kế hoạch 14,58%, trong đó khu vực kinh tế quốc doanh tăng bình quân 16,94%, khu vực ngoài quốc doanh tăng bình quân 13,67%.
- Tốc độ tăng trưởng thương mại – dịch vụ hàng năm tăng bình quân 16,98% – trong đó, các công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân và thương nghiệp – dịch vụ tư nhân, cá thể có tỷ lệ tăng khá cao, chiếm tỷ trọng lớn trên tổng doanh thu hằng năm.
- Xuất khẩu chủ yếu là các mặt hàng điện tử, hoá mỹ phẩm, may mặc, nông hải sản, chế biến cao su. Nhập khẩu chủ yếu là các ngành hàng nguyên liệu phục vụ sản xuất tuy vậy hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng.
Về văn hóa
- Phong trào xây dựng Nếp sống văn minh – Gia đình văn hoá, “Người tốt việc tốt”, “Người con hiếu thảo”, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” ở khu dân cư, xây dựng Công sở văn minh – sạch đẹp – an toàn,…
- Năm 1995, Quận 10 chỉ có 5/71 khu dân cư đạt danh hiệu xuất sắc, 42 khu dân cư tiên tiến, 42 tổ dân phố tự quản, 1.339 gương người tốt việc tốt thì đến năm 2004 đã có 29/75 khu phố đạt danh hiệu khu phố văn hoá, 51 khu dân cư xuất sắc, 5 khu dân cư tiên tiến, 991 tổ tự quản, 41.656 hộ đạt chuẩn gia đình văn hoá, 2.170 gương người tốt việc tốt biểu dương các cấp. Ngoài ra đã có 4 phường (3, 4, 5, 8) đăng ký xây dựng phường đạt chuẩn Phường văn hoá, 36 đơn vị (chợ, bệnh viện, trường học) đăng ký xây dựng đơn vị văn hoá theo tiêu chí của Thành phố.
Y tế – Giáo dục
- Quận 10, nơi tập trung các bệnh viện lớn như: Bệnh viện Nhi Đồng 1, Bệnh viện Nhân dân 115…
- Quận 10 cũng là nơi tập trung khá nhiều các trường học như: Đại học Bách khoa, Học viện Hành chính Quốc gia, Đại học Kinh tế, Đại học Ngoại ngữ – Tin học…
- Ngoài ra, Quận còn có 32 trường mầm non, 11 trường trung học cơ sở, và 9 trường trung học phổ thông
Gas Bình Minh Đường Nguyễn Tri Phương Quận 10 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách gồm 15 phường. Khách hàng thuộc khu vực Quận 10 có nhu cầu sử dụng gas Bình Minh vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
Lịch sử hình thành và phát triển của quận 10
Quận 10 trước đây là khu vực trống, hoang vu nằm giữa vùng Sài Gòn và Chợ Lớn. Về sau, do vị trí thuận lợi, nên dân cư đến tập trung sinh sống. Vào đời vua Minh Mạng, Lê Văn Khôi con nuôi của Lê Văn Duyệt, từng lãnh đạo nhân dân vùng này nổi dậy chống lại triều đình. Vua Minh Mạng đã cho đàn áp, số người tử trận được chôn trong các nấm mồ tập thể rải rác khắp khu vực từ bệnh viện Bình Dân kéo dài đến Việt Nam Quốc Tự. Vì thế, người ta gọi vùng này là Mả Ngụy.
Tên gọi Mả Ngụy có lẽ do đầu buổi đầu dân còn sợ vua Minh Mạng. Về sau, người ta gọi là Đồng Mả Lạng, theo nghĩa mất dấu vết vì thời gian. Người Pháp gọi “cánh đồng mồ mả” vì có quá nhiều mồ mả (Plaise Des Tombean). Ban đầu, người Pháp sử dụng những đồng cỏ này để nuôi ngựa, nhưng đất đai khô cằn, cỏ khó mọc. Đến những năm 1945, dân Lục Tỉnh, dân miền Trung dồn dập tản cư vào, khu vực này trở nên đông đúc hơn.
Năm 1899, vùng đất quận 10 thuộc tỉnh Chợ Lớn.
Thời Việt Nam Cộng hòa
Ngày 1 tháng 7 năm 1969, quận 10 (quận Mười) của Đô thành Sài Gòn được thành lập trên cơ sở tách đất quận 3 và quận 5 trước đó. Ban đầu quận gồm 04 phường: Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, Chí Hòa.
Năm 1972, lập thêm phường Nhật Tảo tại quận Mười (quận này có 05 phường). Cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, quận 10 (quận Mười) gồm 05 phường: Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, Chí Hòa, Nhật Tảo.
Từ năm 1975 đến nay
Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn – Gia Định được thành lập. Lúc này, quận 10 (quận Mười) thuộc thành phố Sài Gòn – Gia Định cho đến tháng 7 năm 1976.
Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh thành phố Sài Gòn – Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban Nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn – Gia Định). Theo đó, vẫn giữ nguyễn quận 10 cũ có từ trước đó. Lúc này, các phường cũ đều giải thể, lập các phường mới có diện tích, dân số nhỏ hơn và mang tên số. Quận 10 có 25 phường, đánh số từ 1 đến 25.
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 1 chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 10 trở thành quận trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, theo Quyết định số 52-CP của Hội đồng Chính phủ, quận 10 giải thể ba phường: 10, 13 và 18, địa bàn ba phường giải thể nhập vào các phường kế cận; số lượng phường trực thuộc quận còn 22:
- Giải thể phường 13; đất và dân cư của phường này sáp nhập vào các phường 12 và 14
- Giải thể phường 10; đất và dân cư của phường này sáp nhập vào các phường 9 và 15
- Giải thể phường 18; đất và dân cư của phường này sáp nhập vào các phường 16 và 19
- Ngày 12 tháng 9 năm 1981, giải thể hai phường: 4 và 17, địa bàn các phường giải thể nhập vào các phường kế cận. Số phường trực thuộc quận 10 còn 20.
Ngày 14 tháng 2 năm 1987, theo Quyết định số 33-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, quận 10 giải thể 20 phường hiện hữu, thay thế bằng 15 phường mới, đánh số từ 1 đến 15. Sự phân chia đơn vị hành chính này giữ ổn định cho đến ngày nay:
- Đổi tên phường 5 cũ thành phường 1.
- Sáp nhập phường 2 cũ với phường 3 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 2.
- Đổi tên phường 1 cũ thành phường 3.
- Sáp nhập một phần phường 8 cũ với phường 9 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 4.
- Sáp nhập phần còn lại của phường 8 vũ với phường 7 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 9.
- Đổi tên phường 15 cũ thành phường 5.
- Đổi tên phường 16 cũ thành phường 6.
- Đổi tên phường 19 cũ thành phường 7.
- Đổi tên phường 11 cũ thành phường 8.
- Đổi tên phường 12 cũ thành phường 10.
- Đổi tên phường 14 cũ thành phường 11.
- Đổi tên phường 21 cũ thành phường 12.
- Sáp nhập một phần phường 24 cũ với phường 23 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 13.
- Sáp nhập phần còn lại của phường 24 cũ với phường 25 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 15.
- Đổi tên phường 20 thành phường 14.
Thông tin thêm về các phường
- Phường Minh Mạng cũ: các phường 1, 2 và 3 hiện nay
- Phường Nhật Tảo cũ: các phường 4 và 9 hiện nay
- Phường Nguyễn Tri Phương cũ: các phường 5, 6, 7, 8 và 14 hiện nay
Quận 10 nổi tiếng với Ngôi chùa cổ tôn nghiêm “Việt Nam Quốc Tự”
Việt Nam Quốc Tự tọa lạc tại 244 đường Ba tháng Hai, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Việt Nam Quốc Tự hiện là trụ sở mới của Ban trị sự Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam (trụ sở cũ là chùa Ấn Quang). Hiện tại, Trụ trì của Việt Nam Quốc Tự là Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thích Trí Quảng.
Lịch sử hình thành của “Việt Nam Quốc Tự”
Giai đoạn từ 1963-1975
Nguyên thủy, sau cuộc đảo chính 1963 tại Nam Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập và được chính phủ lâm thời Việt Nam Cộng hòa bấy giờ cho giáo hội một khu đất rộng 4 mẫu với danh nghĩa là mướn thời hạn 99 năm chỉ với một đồng bạc tượng trưng và được tiếp tục khi hết hạn . Chính phủ của tướng Nguyễn Khánh còn tiến cúng 10 triệu đồng để xây chùa.
Lễ đặt đá xây dựng Việt Nam Quốc tự cử hành vào lúc 8 giờ sáng ngày 26 tháng 4 năm 1964 dưới sự chứng minh của Chư tôn Giáo phẩm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cùng với sự chứng kiến của Quốc trưởng, đồng thời cũng là Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa bấy giờ là tướng Nguyễn Khánh.
Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ là người vẽ đồ án xây dựng, dự kiến chùa được xây dựng với một ngôi tháp 7 tầng mái cong, chạm trổ tinh vi trong không gian thiên nhiên rộng rãi trên vùng đất rộng 45 nghìn mét vuông, với các cảnh quan đặc sắc hài hòa mang đậm bản sắc phong cách kiến trúc Việt Nam.
Đồ án mới xây xong Tháp Việt Nam Quốc tự bảy tầng và một dãy Tăng xá nhưng chưa hoàn thành trọn vẹn. Chùa cũng là trụ sở của Viện Hóa Đạo thuộc GHPGVNTN đến năm 1975 với người trụ trì đầu tiên là hòa thượng Thích Thiện Hoa. Đây là một chùa thuộc hệ phái Bắc tông, tập họp chủ yếu quý tăng ni Phật tử miền Bắc di cư, thường được gọi là miền Vĩnh Nghiêm.
Năm 1965, hòa thượng Thích Từ Nhơn được thỉnh cử đảm nhiệm trụ trì Việt Nam Quốc Tự cho đến nay. Năm 1967, hòa thượng Thích Tâm Châu đã thành lập Viện Đại học Phương Nam trong khuôn viên chùa. Cô nhi viện Quách Thị Trang do nhà chùa quản lý thì nằm phía sau chùa.
Từ 1975 tới nay
Sau khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam năm 1975, toàn bộ khu đất Việt Nam Quốc tự của GHPGVNTN bị nhà cầm quyền mới Cộng hòa Miền Nam Việt Nam trưng thu gần hết: Bốn mươi lăm nghìn mét vuông nguyên thủy rút xuống chỉ còn ba nghìn mét vuông nơi ngọn Tháp Việt Nam Quốc tự toạ lạc. Ngôi chùa thì giao cho Hoà thượng Thích Từ Nhơn cai quản. Hoà thượng Từ Nhơn lúc đó là Thủ qũy Viện Hoá Đạo, GHPGVNTN, sau này gia nhập Giáo hội Phật giáo Nhà nước và được mang chức Phó chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Khuôn viên Việt Nam Quốc Tự trong khoảng thời gian 10 năm (1975-1985) bị bỏ hoang phế nên nhà nước tạm thời trưng dụng xây dựng trung tâm vui chơi giải trí của thành phố – Khu du lịch Kỳ Hoà và Nhà hát Hòa Bình.
Vào năm 1988, Hòa thượng Từ Nhơn với danh nghĩa sư trụ trì cũ đã gửi đơn xin lại khu đất trưng thu và quyền sở hữu chùa Việt Nam Quốc Tự. Sau 5 năm, đến ngày 28 tháng 02 năm 1993 nhà nước cấp lại cho hòa thượng Thích Từ Nhơn theo đơn xin nhưng đất của chùa bị thu hẹp còn 3.712 m2 với ngôi tháp ban đầu đã được xây dựng còn dở dang.
Năm 1993, chùa được trùng tu và tôn tạo mới với nhiều hạng mục hơn. Sau hơn 10 năm tiếp nhận chùa đã hoàn thành ngôi tháp 7 tầng và các cảnh Phật để tăng ni phật tử và khách thập phương chiêm bái. Đến nay, chùa Việt Nam Quốc Tự vẫn là điểm lui tới của các tín đồ Phật giáo xa gần. Tuy nhiên hiện nay, trong sân chùa vào ban đêm thường bị chiếm dụng làm nơi bán sách bói toán.
Năm 2008 có tin Việt Nam Quốc Tự sẽ bị phá, sau khi UBND Thành phố Hồ Chí Minh ngày 23 tháng 2 năm 2008, cấp giấy phép đầu tư dự án xây dựng Trung tâm Tài chính Việt Nam trong khu vực này (với tổng vốn đầu tư 930 triệu USD cho Công ty Berjaya Land Bhd thuộc Tập đoàn Berjaya, Mã Lai). Tuy nhiên, trong cuộc họp báo ngày 25 tháng 6 cùng năm đã được xác nhận chính thức là chùa không thuộc vùng quy hoạch Trung tâm tài chính Việt Nam.
Ngày 31 tháng 10 năm 2015, Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh tổ chức lễ cầu nguyện rót đồng đúc tượng Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tượng có chiều cao 7,5m, nặng 35 tấn. Bức tượng đồng sau khi hoàn thành sẽ được thờ trong chánh điện Việt Nam Quốc Tự và là pho tượng bằng đồng thờ trong chánh điện lớn nhất Việt Nam hiện nay.
Ngày 7 tháng 11 năm 2017, công trình Việt Nam Quốc tự xây mới chính thức được khánh thành. Việt Nam Quốc tự được khởi công xây dựng vào ngày 12 tháng 10 năm 2014 (nhằm ngày vía Quán Thế Âm Bồ Tát), là công trình trọng điểm chào mừng Đại hội Đại biểu Phật giáo TP.HCM lần thứ IX, cũng là để kỷ niệm ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (7 tháng 1 năm 1981). Tổng kinh phí đầu tư cho dự án Việt Nam Quốc tự là 250 tỉ đồng, trong đó phần chánh điện được đầu tư tu sửa với chi phí là 180 tỉ. Thành phố Hồ Chí Minh thu hồi và bàn giao lại hơn 7.200 m2 cho Việt Nam Quốc Tự xây chánh điện và các hạng mục khác. Các hạng mục công trình đã hoàn thành gồm 5 tầng với những công năng khác nhau, như tầng hầm rộng gần 8.000 m2 dùng làm bãi đỗ xe cho khách, tầng một là nơi bố trí hội trường, tầng hai là khu văn phòng… Đặc biệt, tháp bảo 13 tầng, cao 63 m ngoài ý nghĩa biểu tượng cho tinh thần phụng sự, thống nhất của 13 tổ chức, hội đoàn, tông phái tham gia cuộc tranh đấu bất bạo động của Phật giáo vì hòa bình và bình đẳng tôn giáo tại miền Nam năm 1963; đây còn là nơi dự kiến sẽ tôn thờ xá lợi trái tim bất diệt của Bồ tát Thích Quảng Đức.
Gas Bình Minh Đường Nguyễn Tri Phương Quận 10 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách gồm 15 phường thuộc Quận 10, Tp. Hồ Chí Minh, phục vụ giao gas trên mọi nẻo đường của Quận 10. Quý Khách hàng có nhu cầu sử dụng gas Bình Minh thuộc khu vực Quận 10 vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
Bà Hạt
Ba Vì Bắc Hải Bạch Đằng Bạch Mã Bàn Cờ Bửu Long Cách Mạng Tháng 8 Cao Thắng Châu Thới Cửu Long Đào Duy Từ Đào Nguyên Phổ Đất Thánh Điện Biên Phủ Đồng Nai Đường 3 Tháng 2 Hầu Thới Hồ Bá Kiện Hồ Thị Kỷ Hòa Bình Hòa Hảo Hòa Hưng Hoàng Dư Khương |
Hoàng Văn Thụ
Hồng Bàng Hồng Lĩnh Hưng Long Hùng Vương Hương Giang Kênh Nhiêu Lộc Kỳ Hòa Lãnh Binh Thăng Lê Đại Hành Lê Hồng Phong Lữ Gia Lý Thái Tổ Lý Thường Kiệt Ngô Gia Tự Ngô Quyền Nguyễn Chí Thanh Nguyễn Duy Dương Nguyễn Giản Thanh Nguyễn Kim Nguyễn Lâm Nguyễn Ngọc Lộc Nguyễn Thị Định Nguyễn Thượng Hiền |
Nguyễn Tiểu La
Nguyễn Tri Phương Nguyễn Trung Trực Nguyễn Văn Lượng Nhật Tảo Sư Vạn Hạnh Tam Đảo Tân Phước Thành Thái Thất Sơn Thiên Phước Tô Hiến Thành Trần Bình Trọng Trần Hưng Đạo Trần Minh Quyền Trần Nhân Tôn Trần Quốc Dung Trần Quý Trần Thiện Chánh Trần Văn Đang Trường Chinh Trường Sơn Vĩnh Viễn |