Đại Lý Gas Bình Minh Đường Nguyễn Đăng Giai, Quận 2 chuyên giao lẻ gas Bình Minh dân dụng 12kg tại nhà cho hộ gia đình, chung cư, căn hộ, chung cư cao cấp và giao sỉ gas Bình Minh dân dụng – gas Bình Minh công nghiệp 45kg cho quán ăn, nhà hàng, khách sạn, quán nhậu, văn phòng công ty, căn tin, bếp ăn công nghiệp… tại Quận 2. Khách hàng có nhu cầu đổi gas Bình Minh vui lòng gọi (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Bình Minh Đường Nguyễn Đăng Giai, Quận 2 với dịch vụ giao gas chuyên nghiệp
Đại Lý Gas Bình Minh Đường Nguyễn Đăng Giai, Quận 2 giao gas nhanh và an toàn
- Luôn chủ động giao gas nhanh nhất đến nhà khách hàng.
- Luôn giao gas Bình Minh chính hãng, có thương hiệu đảm bảo chất lượng.
- Luôn cân bình gas tại nhà khách hàng, đảm bảo đủ ký.
- Luôn kiểm tra rò rỉ gas mỗi khi giao gas để đảm bảo an toàn cho khách hàng.
Giao Gas Bình Minh Chính Hãng |
Gas Bình Minh Luôn Cân Gas Tại Nhà |
Đại Lý Gas Bình Minh Đường Nguyễn Đăng Giai, Quận 2 luôn có hậu mãi chu đáo
- Có đội ngũ bảo trì định kỳ bếp gas, van gas, dây dẫn gas hoàn Toàn miễn phí.
- Sửa bếp gas miễn phí cho khách hàng trong suốt quá trình sử dụng.
- Được đội ngũ của đại lý gas Bình Minh giao tận nhà.
- Hệ Thống giao gas 24 quận huyện Tp.Hồ Chí Minh.
- Khách hàng có nhu cầu ký hợp đồng, sử dụng số lượng nhiều, vui lòng liên hệ tổng đài (028) 6683 6644 để có chính sách giá tốt nhất.
Sản phẩm của đại lý gas Bình Minh Đường Nguyễn Đăng Giai, Quận 2 bán nhiều nhất:
Gas Gia Đình Vàng |
Gas Gia Đình Xám |
Gas Bình Minh Vàng |
GIỚI THIỆU VỀ GAS BÌNH MINH
- Gas Bình Minh hiện là công ty dẫn đầu trong lĩnh vực bán lẻ khí hóa lỏng (LPG) tại Việt Nam và đến nay đã trở thành thương hiệu quen thuộc với nhiều khách hàng tại Tp. HCM & các tỉnh Miền Đông và Miền Tây.
- Gas Bình Minh đã đạt được danh hiệu: “Thương hiệu Việt được yêu thích nhất” do đọc giả Báo SGGP bầu chọn (2011, 2012) và nằm trong TOP 500 doanh nghiệp phát triển nhanh nhất Việt Nam 2012 (VNR 500, 2012)
- Gas Bình Minh cam kết mang đến cho khách hàng những sản phẩm an toàn, đúng giá niêm yết, đúng chất lượng, đủ trọng lượng cùng những dịch vụ hậu mãi chu đáo.
Gas Bình Minh top 500 doanh nghiệp phát triển và là thương hiệu Việt được người tiêu dùng yêu thích
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GAS BÌNH MINH
- Từ năm 1993 là Doanh Nghiệp Tư Nhân Gas & Bếp Gas.
- Đến năm 2001 Thành lập Công ty TNHH Gas Bình Minh.
- Đến năm 2005 Ra đời Siêu Thị Bếp Gas đầu tiên tại Việt Nam với sự hợp tác của các thương hiệu bếp Gas hàng đầu: Rinnai, GoldSun, SoGo, BlueStar…
- Đến năm 2007 Phát triển hệ thống bán lẻ Gas Bình Minh – một trong những hệ thống bán lẻ gas & bếp gas chuyên nghiệp và tiên phong tại Tp. HCM.
- Đến năm 2008 Thành lập các chi nhánh tại các tỉnh miền Đông và miền Tây, chính thức mở rộng hệ thống bán lẻ đến các tỉnh.
- Chuyển sang mô hình Công ty Cổ Phần vào tháng 11/2013, để chuẩn bị cho kế hoạch phát triển. Chính thức đổi tên thành Công ty Cổ Phần Thương Mại Gas Bình Minh.
- Hiện tại: Gas Bình Minh đang là Hệ thống các cửa hàng bán lẻ gas / bếp gas chuyên nghiệp lớn nhất Việt Nam với 87 cửa hàng (53 cửa hàng tại Tp. HCM, 19 cửa hàng tại Miền Đông và 16 cửa hàng tại Miền Tây).
- Gas Bình Minh hiện là công ty dẫn đầu trong lĩnh vực bán lẻ khí hóa lỏng (LPG) tại Việt Nam và đến nay đã trở thành thương hiệu quen thuộc với nhiều khách hàng tại Tp. HCM & các tỉnh Miền Đông và Miền Tây.
- Gas Bình Minh đã đạt được danh hiệu: “Thương hiệu Việt được yêu thích nhất” do đọc giả Báo SGGP bầu chọn (2011, 2012) và nằm trong TOP 500 doanh nghiệp phát triển nhanh nhất Việt Nam 2012 (VNR 500, 2012)
- Gas Bình Minh cam kết mang đến cho khách hàng những sản phẩm an toàn, đúng giá niêm yết, đúng chất lượng, đủ trọng lượng cùng những dịch vụ hậu mãi chu đáo.
Để biết thông tin chi tiết về gas Bình Minh, giá bán các loại gas Bình Minh dân dụng, gas Bình Minh công nghiệp, chính sách giao gas, chính sách hậu mãi. Quý khách vui lòng liên hệ qua số (028) 6683 6644 |
Nguyễn Đăng Giai là một tên nhân vật lịch sử
Nguyễn Đăng Giai ( ? – 1854) tự Toản Phu; là danh thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Đăng Giai
Nguyễn Đăng Giai là người làng Phù Chánh, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Xuất thân trong một gia đình vọng tộc, nội ông là tiến sĩ Nguyễn Đăng Hoành, cha ông là Hiệp biện đại học sĩ Nguyễn Đăng Tuân (thầy dạy vua Thiệu Trị).
Thuở nhỏ, Nguyễn Đăng Giai theo học với thân phụ. Năm Minh Mạng thứ nhất (1820), ông đỗ hương tiến (cử nhân).
Dưới triều Minh Mạng
Thi đỗ, Nguyễn Đăng Giai được bổ vào làm ở Hàn lâm, rồi thăng Lang trung bộ Hộ. Năm Canh Dần (1830), ông làm thự Tham hiệp trấn Nam Định. Mùa thu năm Tân Mão (1832), sung cho ông chức Khảo thí trường thi Nghệ An, rồi đợi lĩnh chức Bố chánh sứ Thanh Hóa.
Khi ấy, đường biển thường bị cướp, bị những nhóm nổi dậy làm trở ngại, nên ông đã cùng với Tổng đốc Đoàn Văn Trường dâng sớ xin chấn chỉnh lại các đội binh thuyền, để tiễu trừ nạn trên. Xem xong tấu sớ, vua Minh Mạng phê rằng: Đăng Giai có kiến thức, những điều đã trình bày phần nhiều thiết thực trúng cơ nghi… Vì vậy, ông không được điều đến Thanh Hóa, mà được cử làm Hộ lý quan phòng cửa Tuần Phủ.
Lúc bấy giờ, ở nhiều nơi bị mất mùa, dân đói đến nỗi phải xiêu dạt, Nguyễn Đăng Giai liền xin vua cho đặt sở Dưỡng tế, cho mở đường cảng và lấy đá núi, lấy tiền trả công thay cho tiền phát chẩn. Lời tâu này lại được nhà vua truyền chỉ khen ngợi ông là người “hết lòng trù tính cứu chữa”.
Năm Quý Tỵ (1833), Lê Duy Lương làm cuộc nổi dậy ở đất Bắc. Tháng 3 (âm lịch), nhà vua sai Tổng đốc An Tĩnh (Nghệ An, Hà Tĩnh) Tạ Quang Cự, Thống chế Hoàng Đăng Thận và Nguyễn Đăng Giai cùng mang quân bộ và quân tượng đi tiễu trừ lực lượng của Lê Duy Lương.
Sau khi được nhà vua chấp thuận phương cách tiêu diệt cuộc nổi dậy của ông, ông đã tự xin đem binh tượng đến thẳng Ninh Bình, rồi cùng với Tạ Quang Cự tiến quân đóng ở phủ Thiên Quang (nay là Nho Quan). Khi ấy quân của Lê Duy Lương đang làm chủ đất Chi Nê, 4 sở ở Phụng Hóa, 2 sở ở Gia Viễn và 5 sở ở Yên Hóa…Ngoài vài ngàn quân, lực lượng Lê Duy Lương còn có hơn 30 chiếc thuyền chiến chia giữ các nơi hiểm yếu.
Để đối lại, Nguyễn Đăng Giai bèn bàn với tướng Tạ Quang Cự cùng hợp binh, trước đánh lấy hai đồn là Không Cốc và Tâm Đình, sau tiến lấy Chi Nê và Sơn Âm. Không ngờ trong lúc đánh đuổi quân nổi dậy, một thổ ty ở Thanh Hóa là Nguyễn Đình Bang, sau khi được cấp súng liền đánh lại quân triều rồi bỏ trốn. Nguyễn Đăng Giai gửi sớ về nhận lỗi, vua Minh Mạng truyền lệnh cách chức ông nhưng cho ở lại quân thứ để lấy công chuộc tội. Sau đó, ông đốc quân tiến đánh lấy lại đồn Xích Thổ và vài đồn khác, làm thương vong quân nổi dậy rất nhiều, được nhà vua khen cho ông khai phục chức quan cũ. Tiếp theo, Nguyễn Đăng Giai lại nhận lệnh dẫn quân đi đánh dẹp cuộc nổi dậy của các thổ dân ở Thanh Ba, lúc bấy giờ đang đánh phá huyện Cẩm Thủy và phủ Quảng Hóa (ở phía tây bắc của tỉnh Thanh Hóa). Xong việc, ông được khai phục chức Bố chính, rồi đổi đi Bắc Ninh.
Năm Bính Thân (1836), ông được điều động về Thanh Hóa, rồi tiếp tục lo việc mở đường cảng. Cuối năm ấy, các thổ ty ở Thanh Ba lại xui dân nổi dậy, nhà vua bèn cử Hiệp biện đại học sĩ Trương Đăng Quế làm chức Kinh lược, cử Doãn Uẩn và ông cùng làm chức phó, để đi trấn áp và thu phục lại lòng dân.
Năm sau (1837), dân tỉnh Bắc Ninh bị đói, nhà vua ban lệnh bán thóc gạo cho dân, cử Nguyễn Đăng Giai ra coi việc ấy, nhưng vì có lời xin của Trương Đăng Quế nên ông được ở lại để cùng đi đánh dẹp tàn quân của Lê Duy Lương, lúc này đang do các thủ lĩnh họ Quách, họ Đinh làm lãnh đạo.
Tháng 3 (âm lịch) năm ấy, Nguyễn Đăng Giai cùng Đề đốc Tôn Thất Bật đang ở Ái Chữ, thì bắt sống được một viên tướng của đội quân nổi dậy là Phạm Công Nho, liền cho đóng cũi đưa về Huế giết ngay. Sau đó, Nguyễn Đăng Giai còn chém chết tại trận tướng Lê Phúc Hiển, bắt sống thêm hai viên tướng khác, đó là Đinh Kim Bảng và Hà Công Kim của lực lượng trên.
Bình định xong nơi ấy[3], vua Minh Mạng xuống chiếu cho ông thu quân về. Vào triều, ông được nhà vua thưởng cho quân công một cấp, và chuẩn cho ông về lại Bắc Ninh.
Dưới triều Thiệu Trị
Năm đầu Thiệu Trị (1841), thăng Nguyễn Đăng Giai làm Tổng đốc Ninh Thái (tức Bắc Ninh và Thái Nguyên). Năm Quý Mão (1843), đồng thủ lĩnh cuộc nổi dậy ở Sơn Tây là Ba Nhàn và Tiền Bột kéo lực lượng về ẩn náu ở vùng rừng núi thuộc đất Lâm Thao và Đoan Hùng. Để truy diệt tận gốc, nhà vua bèn đổi Nguyễn Đăng Giai làm thự Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang). Đến nơi, ông lo chỉnh đốn việc binh, nên chỉ vài tháng sau thì đánh dẹp xong.
Lập được đại công, Nguyễn Đăng Giai được thưởng cho một cấp trác dị, kim tiền và nhẫn ngọc. Cũng trong năm ấy, ông tâu với vua xin bãi chức Bố chính Lê Nguyên Giám và Án sát Vũ Danh Trì ở tỉnh Tuyên Quang vì không làm được việc; xin mộ thổ dân, lập đồn quân ở Sơn Động, đặt chức giáo thụ cho tỉnh này.
Mùa thu năm Giáp Thìn (1844), trong kỳ xét công, ông được vua Thiệu Trị cho thực thụ chức Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên. Cha mất, ông xin về thọ tang. Không bao lâu sau, ông lại trở ra Tuyên Quang, dẫn quân đi tìm bắt Nông Hùng Thạc, lúc này cũng đang làm cuộc nổi dậy chống Nguyễn. Bắt được thủ lĩnh Thạc, Nguyễn Đăng Giai lại được thăng một cấp.
Năm Bính Ngọ (1846), đổi ông làm Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội và Ninh Bình). Khi ấy, việc đê điều ở Bắc Kỳ, người nói thôi, người nói đắp, ý kiến rất khác nhau. Cho nên, nhà vua đã sai Nguyễn Đăng Giai phải đích thân đi xem xét rồi thử đưa ra giải pháp. Tuy nhiên, sau đó đề xuất của ông không được đình thần chấp thuận, vì bị cho là “tự một mình thiên kiến”.
Dưới triều Tự Đức
Năm Tự Đức thứ nhất (1848), thăng Nguyễn Đăng Giai làm thự Hiệp biện đại học sĩ, triệu về làm Thượng thư bộ Hình kiêm sung Quốc sử quán Tổng tài. Tháng 5 (âm lịch) năm ấy, ông dâng sớ điều trần 10 khoản về việc hình, 13 khoản về các việc đúc tiền, tuyển lính, khẩn hoang, vỗ yên dân…Tất cả đều được nhà vua nghe theo.
Khi ấy, vì mới lên ngôi, nhà vua muốn sai sứ sang nhà Thanh cầu phong. Nguyễn Đăng Giai liền dâng sớ can ngăn, đồng thời đề xuất ý kiến là nên mời sứ thần nhà Thanh sang làm lễ bang giao tại kinh đô Huế, vừa giữ được lễ, vừa ít tốn kém. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép:
Vua cho lời nói (của ông) là phải, sai phát quốc thư đệ đạt đi. Đến khi sứ nước Thanh là Lao Sùng Quang đến Kinh, làm lễ bang giao, tình ý thỏa hợp, Vua cho Đăng Giai (là người) đầu tiên kiến nghị ra, giữ được quốc thể lắm, thưởng (cho ông) một đồng kim tiền có chữ “Long vân khế hội” và ba tấm nhiễu màu.
Tuy được nhà vua khen và tin cậy, nhưng Nguyễn Đăng Giai không được lòng các quan đồng triều. Cho nên khi khuyết chức Tổng đốc Nghệ An, nhiều người đã đồng đề cử ông đi, buộc ông phải dâng sớ xin từ chối.
Mùa xuân năm Canh Tuất (1850), vùng Hữu Kỳ (gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) mất mùa, nhà vua bèn chọn Nguyễn Đăng Giai làm Hữu Kỳ Kinh lược đại sứ lĩnh chức Tổng đốc An Tĩnh (Nghệ An và Hà Tĩnh), kiêm coi đạo Thanh Hóa. Đến nơi, ông gửi sớ về xin vua cho sắp đặt lại nhiều việc, trong đó có việc cho bãi lệnh cấm bán gạo, hoãn thu thuế, tha cho các khoản thiếu, mở các cửa quan và đình đặt đồn để cho dân tự do đi lại giao thương…Lời tâu của ông lại được vua khen, và sai đình thần chọn lấy để thi hành.
Mùa đông năm ấy, ông lại tâu xin truy phong các bề tôi tiết nghĩa ở cuối đời Hậu Lê, lại được vua nghe theo. Xét công, nhà vua thưởng cho ông một cái bài đeo bằng ngọc tốt chạm khắc hoa mai, một đồng tiền hạng lớn có chữ “Vạn thế vĩnh lại”.
Năm Tân Hợi (1851), tàn dư của các cuộc nổi dậy chống Thanh nhưng đã biến chất, từ Quảng Tây (Trung Quốc) xiêu dạt tới cướp phá đất Cao Bằng. Nhà vua liền đổi Nguyễn Đăng Giai đi làm Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội và Ninh Bình) kiêm sung Kinh lược các tỉnh là: Ninh Thái (Bắc Ninh và Thái Nguyên) và Lạng Bằng (Lạng Sơn và Cao Bằng).
Sau khi đi xem xét các nơi, ông dâng sớ lên vua trình bày 5 điều về sự trù tính công việc ở biên giới. Được nhà vua chấp thuận, ông liền lệnh cho các tỉnh chọn lính (tuyển thổ binh, tuyển cả phạm nhân tội lưu), bãi chức lưu quan, đặt lại thổ quan…để cho cương giới được bền vững. Tiếp theo, ông gửi thư cho Tuần phủ Quảng Tây để nhờ yễm trợ, rồi đốc quân đến Lạng Sơn, đánh bắt được ba viên chỉ huy của đội quân xiêu dạt trên là Trần Trường, Hoàng Ngọc Quang, Đặc Kim Long. Hoảng sợ, Lý Văn Xương, thủ lĩnh quân Tam Đường (Lai Châu) bèn cử người đến xin hàng.
Nhân dịp này, Nguyễn Đăng Giai lại xin vua cho thi hành ba việc cần làm ở biên giới phía Bắc (và được chấp thuận), đó là: Đặt đồn lớn ở ven biên giới, chia ghép lại Tam Đường và tha thuế cho các châu huyện bị tàn quân cướp bóc.
Năm Quý Sửu (1853), ông xin về thăm mẹ già, được vua ban cho 40 lạng bạc. Cũng trong năm này, khi bình xét công lao, ông được thưởng một cái kim khánh hạng lớn có chữ “Liêm bình cần cán”.
Năm Giáp Dần (1854), quân “phỉ” (gọi theo sử cũ) ở Trung Quốc lại kéo sang quấy nhiễu ở đất Cao Bằng. Nguyễn Đăng Giai lại phải mang bộ binh, tượng binh đi mới đánh đuổi được. Rồi vì một người ở bang Hướng Nghĩa (thuộc Tam Đường) tên là Giang A dọa nạt người lấy của, nên ông bị nhà vua sai giáng bốn cấp nhưng cho lưu nhiệm. vì tội “chiêu nạp người đầu hàng không đúng”.
Mùa thu năm ấy, Nguyễn Đăng Giai lâm bệnh nặng rồi chết tại Hà Nội. Thương tiếc, vua Tự Đức sai truy tặng ông hàm Thiếu bảo, ban tên thụy là Văn Ý. Năm Mậu Ngọ (1858), nhà vua cho thờ ông trong đền Hiền Lương tại Huế.
Bình phẩm
Nói về Nguyễn Đăng Giai, trong sách Đại Nam chính biên liệt truyện, có biên chép hai lời dụ của vua Tự Đức và một lời phê của các sử quan làm ra sách này. Ba đoạn văn ấy như sau:
Mùa đông năm Canh Tuất (1850), vua Tự Đức ban dụ rằng:
(Nguyễn) Đăng Giai mang cờ tiết đi xét hỏi dân tình, kinh lý châu huyện, nên người thanh liêm tài năng, bỏ kẻ tham nhũng, tha các thuyế trốn, thiếu, vỗ yên dân điêu háo, đến đấy thức ăn dùng của dân được thừa thãi, trộm cướp yên lặng, đời xưa khen là thuần lương cũng không hơn thế. Đặc cách thưởng (cho Đăng Giai) một cái bài đeo bằng ngọc tốt chạm khắc hoa mai, một đồng tiền hạng lớn có chữ “Vạn thế vĩnh lại” và đoạn, nhiễu, sâm, quế.
Mùa thu năm Giáp Dần (1854), nghe tin ông mất, vua Tự Đức lại ban dụ rằng:
Nguyễn Đăng Giai đã từng thờ ba triều, trung cần một tiết. Ra ngoài nhận coi một địa phương, vào Kinh tham dự việc cơ mật, đã hơn 20 năm nay từ khi mang cờ tiết ra sai phái cúi mình làm hết sức khó nhọc, sửa sang việc biên cương, xông pha lam chướng, nhọc mãi thành mệt, lâu ngày bệnh nặng, đã từng sai ban cho vị thuốc ở thượng phương (thuốc của vua dùng) để mong giữ được thân có bệnh, cố gắng theo việc nhà vua, ngờ đâu lại chết, thương tiếc biết bao.
Lời phê của các sử quan:
Nguyễn Đăng Giai xuất thân là thế thần, được vua để ý chọn cất lên, trải qua làm quan trong triều, ngoài quân, dựng được nhiều mưu kế sáng suốt, công nghiệp kể cũng rực rỡ. Nay đọc đến những biểu chương sớ tấu thì (thấy) kiến thức lúc bình sinh (của ông), đầy dẫy ra ở lời nói, tuy bề tôi có danh tiếng đời xưa cũng không hơn được. Tiếc vì (ông) tôn chuộng đạo Thích, dựng chùa thờ Phật, luôn mê hoặc người, phí của thật nhiều, chưa khỏi làm lụy cho thịnh đức.
Thông tin thêm
Tuy là con nhà theo đạo Nho, nhưng Tổng đốc Hà Ninh Nguyễn Đăng Giai cũng là người mến mộ đạo Phật. Năm 1842, chính ông đã đứng ra quyên góp và chủ trì việc xây dựng một ngôi chùa có tên là Báo Ân (tục gọi là chùa Quan Thượng, vì ông Giai mang hàm Thượng thư), với quy mô gồm 180 gian với 36 nóc trên khu đất rộng gần 100 mẫu, mặt trước trông ra Sông Hồng, mặt sau dựa vào hồ Hoàn Kiếm (Hà Nội). Năm 1888, thực dân Pháp phá hủy để xây dựng nhà Bưu điện, chỉ còn giữ được tháp Hoà Phong (tháp Ông Thương) ở phía sau chùa, nay ở trên bờ hồ Hoàn Kiếm (Hà Nội). Tuy nhiên, việc làm này không phải ai cũng đều tán thành, cho nên lúc bấy giờ có người làm ra bốn câu tứ tuyệt ngụ ý châm biếm Nguyễn Đăng Giai như sau:
Phúc đức gì mày bố đĩ Giai?
Làm cho tổn Bắc lại hao Đoài!
Kìa gương Vũ đế còn soi đó,
Ngã tử Đài thành, Phật cứu ai?
Trong số con của ông Giai, nổi bật có Nguyễn Đăng Hành, đỗ Tiến sĩ năm 1848, làm quan trải đến chức Bắc thứ thường biện quân vụ ở Bắc Kỳ. Khoảng năm 1862, ông bị quân nổi dậy giết chết ở Thuận Thành (Bắc Ninh), được truy thụ hàm Bố chính sứ, được thờ ở đền Trung Nghĩa (Huế), và được chép thành truyện cùng với nội (Nguyễn Đăng Tuân) và cha (Nguyễn Đăng Giai) trong Đại Nam chính biên liệt truyện (quyển thứ 13).
Ở quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh hiện có con đường mang tên Nguyễn Đăng Giai.
TỔNG QUAN VÀ NHỮNG ĐIỂM NỔI BẬT CỦA QUẬN 2
Quận 2 là một quận nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 2 là quận mới đô thị hóa, nơi có Khu đô thị mới Thủ Thiêm trong tương lai gần là trung tâm tài chính thương mại mới của Thành phố Hồ Chí Minh.
Vị trí địa lý Quận 2
- Quận 2 là một trong năm quận nằm ở phía Đông Bắc Thành phố Hồ Chí Minh:
- Phía Bắc giáp quận Thủ Đức.
- Phía Nam giáp sông Sài Gòn, ngăn cách với quận 7, sông Nhà Bè, ngăn cách với huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
- Phía Tây theo thứ tự từ Bắc xuống Nam lần lượt ngăn cách với quận Bình Thạnh, quận 1 và quận 4 bởi sông Sài Gòn.
- Phía Đông giáp quận 9.
Phân Chia hành chính Quận 2
Quận 2 được chia thành 11 phường: An Khánh, An Lợi Đông, An Phú, Bình An, Bình Khánh, Bình Trưng Đông, Bình Trưng Tây, Cát Lái, Thạnh Mỹ Lợi, Thảo Điền, Thủ Thiêm.
Trong đó, phường Thạnh Mỹ Lợi là trung tâm của quận.
Cơ Sở hạ tầng Quận 2
Hiện nay trên địa bàn quận 2 đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như khu đô thị Thủ Thiêm, khu đô thị Sala, khu đô thị Cát Lái, khu đô thị Palm City, khu đô thị Marina Bay Thủ Thiêm, khu đô thị Sarah Thảo Điền, khu đô thị Empire City Thủ Thiêm, khu đô thị Lake View City, khu đô thị Citi Bella, khu đô thị Cityland Bình Trưng Đông, khu đô thị Phố Đông Village, khu đô thị Citi Home, khu đô thị Ventura, khu đô thị Spring Life, khu đô thị An Phú – An Khánh…
Quận 2 từ lâu đã được nổi tiếng với công trình thế kỷ “Cầu Sài Gòn”
Vị trí địa lý Cầu Sài Gòn
Vị trí: Thành phố Hồ Chí Minh
Bắc qua: sông Sài Gòn
Thông số kỹ thuật:
- Kiểu cầu Cầu bê tông
- Vật liệu Bê tông
- Chiều dài 986,12 m
- Rộng 24 m
- Nhịp chính 267,45 m
Nhà thầu xây dựng cầu Sài Gòn
- Nhà thầu Johnson Drake and Piper
- Khởi công tháng 11, 1958
- Khánh thành 28 tháng 6 năm 1961
Lịch sử hình thành Cầu Sài Gòn
Cầu Sài Gòn (trước năm 1975 tên là cầu Tân Cảng) là một trong những cây cầu bắc qua sông Sài Gòn nối đường Điện Biên Phủ (quận Bình Thạnh) với Xa lộ Hà Nội (Quận 2), Thành phố Hồ Chí Minh. Cho đến khi đường hầm Thủ Thiêm được xây dựng xong thì đây vẫn là cửa ngõ chính để vào nội ô Thành phố Hồ Chí Minh từ các tỉnh miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Cầu được công ty Johnson Drake and Piper thi công từ tháng 11 năm 1958 đến ngày 28 tháng 6 năm 1961 thì hoàn thành. Cầu dài 986,12 m, gồm 32 nhịp, trong đó có 3 nhịp với chiều dài 267,45m. Cầu được sửa chữa 3 lần vào các năm 1995, 1996. Năm 1998, cầu được tiến hành nâng cấp và sửa chữa với tổng kinh phí 54 triệu franc từ nguồn vốn viện trợ của Pháp và đến tháng 6 năm 2000 thì hoàn thành. Sau khi nâng cấp, mặt cầu được mở rộng từ 19,63m lên 24m đạt tải trọng H30-XB80, có 4 làn xe, có tải trọng 32 tấn, đáp ứng nhu cầu giao thông ngày càng cao của thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 12/5/2011, công trình nâng cấp, sửa chữa cầu Sài Gòn do Công ty Freyssinet Việt Nam khởi công thực hiện. Cầu Sài Gòn được thi công các hạng mục như gia cường mặt bê-tông, nhịp thép, hệ thống đỡ nhịp treo, trụ đỡ, gia cố các mối nối, thay thế khe co giãn… trong thời gian 6 tháng với tổng mức kinh phí khoảng 64 tỷ đồng. Dự án nâng cấp, sửa chữa cầu Sài Gòn do Công ty Freyssinet Việt Nam làm tổng thầu theo hình thức EPC (chìa khóa trao tay), đảm nhiệm tất cả công đoạn từ lập dự án, thiết kế, cung cấp thiết bị, vật tư và xây dựng công trình. Sau khi nâng cấp, sửa chữa, cầu Sài Gòn được tăng tải đảm bảo theo tiêu chuẩn HL-93 không hạn chế tải trọng qua cầu.
Cầu Sài Gòn 2
Cầu Sài Gòn 2 do Công ty Cổ phần Đầu tư hạ tầng kỹ thuật TP Hồ Chí Minh thực hiện trong 18 tháng, khởi công xây dựng ngày 14/4/2012 hoàn thành ngày 15/10/2013. Cầu Sài Gòn 2 song song với cầu Sài Gòn 1 hiện hữu, cách khoảng 3m về phía hạ lưu, có tổng chiều dài hơn 987m, gồm 30 nhịp. Kết cấu nhịp chính được bố trí theo sơ đồ 5 nhịp liên tục bằng bê tông cốt thép dự ứng lực.
Dự án cầu Sài Gòn 2 đã được Công ty Cổ phần Đầu tư hạ tầng kỹ thuật TP.HCM lên kế hoạch hoàn thành trong vòng 21 tháng, rút ngắn tiến độ so với các đơn vị thiết kế trước đó. Và thực tế thi công đã rút xuống còn 18 tháng, tiết kiệm chi phí hàng trăm tỷ đồng cho ngân sách. Sau khi đưa vào sử dụng đã giải quyết triệt để điểm nghẽn ở cửa ngõ phía Đông Bắc của TP.HCM.
Đại Lý Gas Bình Minh Đường Nguyễn Đăng Giai, Quận 2 nhận giao tận nhà khách hàng gồm 11 phường. Quý Khách hàng có nhu cầu sử dụng gas Bình Minh tại khu vực quận 2, vui lòng gọi chúng tôi qua số (028) 6683 6644.
Một Số công trình tiêu biểu tại Quận 2
Đường hầm sông Sài Gòn
Thông tin chung
- Tên cũ Hầm Thủ Thiêm
- Tên khác Hầm dìm Thủ Thiêm
- Dạng Bê tông cốt thép
- Địa điểm sông Sài Gòn
- Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
- Quốc gia Việt Nam
- Địa chỉ Nối quận 1 và quận 2 thành phố Hồ Chí Minh
Xây dựng
- Khởi công 2004
- Khánh thành 21/11/2011
- Nhà thầu chính Obayashi Corporation
- Chi phí xây dựng ban đầu 67,055 tỉ Yên tương đương 8.101,410 tỉ VND thời điểm năm 2000.
Kích thước
- Kích thước khác rộng 33,3 m
- Chiều dài = 1.490m
- Chiều cao 8.9 m
Đường hầm sông Sài Gòn (hay còn gọi là Hầm Thủ Thiêm) là một đường hầm vượt qua sông Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Đây là một phần trong dự án Đại lộ Đông Tây nối Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh với Khu đô thị mới Thủ Thiêm. Đường hầm có sáu làn xe ô tô, được dìm dưới lòng sông Sài Gòn (có ngầm đáy sông). Nguồn vốn đầu tư từ Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của chính phủ Nhật Bản có vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam. Tổng thầu thi công là liên doanh các nhà thầu Nhật Bản. Theo quy hoạch, Khu đô thị mới Thủ Thiêm được kết nối với đô thị hiện hữu bằng một số cây cầu như: Cầu Thủ Thiêm nối Quận Bình Thạnh, cầu Ba Son nối với Quận 1, Cầu Phú Mỹ nối với Quận 7 và một cây cầu nữa nối với Quận 4. Chiều ngày 20 tháng 11 năm 2011, lễ thông xe hầm Thủ Thiêm được tổ chức. Sáng ngày 21 tháng 11, hầm Thủ Thiêm chính thức được thông xe sau gần 7 năm thi công, kết nối hai bờ sông và giảm tải cho cầu Sài Gòn, đồng thời làm động lực cho sự phát triển của thành phố. Công trình được đánh giá là hầm vượt hiện đại nhất Đông Nam Á.
Tháng 5 năm 1997, sau cuộc hội thảo về dự án công trình vượt sông Sài Gòn qua Thủ Thiêm, thì phương án đường hầm ở vị trí đường Hàm Nghi được chọn và vị trí này được đánh giá là phù hợp với quy hoạch của Thành Phố.
Báo cáo nghiên cứu khả thi cuối cùng được duyệt vào tháng 6 năm 1997 với phương án xây dựng hầm qua sông Sài Gòn. Các đơn vị phối hợp thực hiện báo cáo nghiên cứu khả thi gồm công ty tư vấn Úc, G. Maunsell & Partners Ltd, công ty tứ vấn MVA, CES Enter, ngân hàng Sumitomo và AIC Maunsell, và JICA. Công việc xây dựng bị đình trệ đến năm 2004 do vướng các vấn đề về giải tỏa, đền bù và tái định cư các hộ dân trong khu vực dự án.
Thiết kế
Hầm được thiết kế gồm 6 làn xe (2 x 3 x 3,5m), từ cầu Calmette chìm xuống đáy sông Sài Gòn và nối với phía Thủ Thiêm tại đầu đường T13 với tổng chiều dài 1.490 m. Trong đó, lối vào hầm hai phía có dạng chữ U với tổng chiều dài 400 m; phần nhánh và miệng hầm hai phía dài 720 m; và phần hầm dìm dài 370 m. Phần hầm dìm được chia thành 4 đốt và được đúc riêng ở nơi khác, mỗi đốt nặng 27.000 tấn. Độ dốc hầm tối đa là 4%, đốt hầm làm bằng bê tông cốt thép. Hầm nằm dười đáy sông cách mặt nước 24 m, mặt cắt ngang rộng 33,3 m cao 8.9m bề dày đáy và nắp 1,5 m, bề dày vách hai bên 1m. Tốc độ xe lưu thông trong hầm đạt 60 km/giờ. Hầm có thể chịu được động đất 6 độ Richter và có tuổi thọ 100 năm.
Đánh giá về thiết kế
Báo cáo thẩm định của Viện Khoa học công nghệ xây dựng – Bộ Xây dựng (2003) cho rằng phương án thiết kế của nhà thầu Obayashi (Nhật) về gói thầu xây dựng hầm Thủ Thiêm có nhiều rủi ro. Theo đó, độ lún dự báo của công trình lớn, có khả năng gây nứt hỏng các đốt hầm trước khi đưa vào sử dụng và kiến nghị tìm phương án khác có độ tin cậy cao hơn. Về mặt tiếng ồn, do hầm bằng bê tông cốt thép có độ phẳng cao và được chôn sâu dưới lòng sông nên dòng xe qua lại sẽ tạo nên tiếng ồn khá lớn, Sở Giao thông Vận tải khuyến cáo người dân đi xe máy che kín tai và hạn chế chở trẻ em qua hầm.
Thi công
Hầm do nhà thầu chính thi công là Obayashi Corporation của Nhật Bản
Bể đúc hầm được đặt tại xã Phước Khánh, huyện Nhơn Trạch tỉnh Đồng Nai, ngay giáp sông Nhà Bè – đoạn trước khi sông Nhà Bè chia làm hai nhánh sông Lòng Tàu và Soài Rạp
Hầm được chia làm 5 đốt 4 đốt dài 92.4m và một đốt (End-unit) dài 3.5m
Các sự cố
Tháng 5-2008, theo báo cáo kết quả kiểm tra của Hội đồng nghiệm thu nhà nước về chất lượng công trình đại lộ Đông – Tây, hàng loạt vết nứt nứt trên tường và bản nắp trên các đốt hầm đã được ghi nhận. Các vết nứt ở thành tường thẳng đứng kéo dài từ 2m – 3m, bề rộng lớn nhất của vết nứt rộng đến 1 mm (theo tiêu chuẩn JSCE 2002 do nhà thầu Obayashi đưa ra thì mức độ bề rộng vết nứt cho phép đối với hầm là dưới 0,28 mm). Các vết nứt cũng xuất hiện ở vị trí giữa các phân đoạn đổ bê tông của mỗi đốt hầm. Các vết nứt này thẳng đứng kéo dài gần như hết chiều cao đốt hầm, bề rộng vết nứt đến 0,3 mm. Các vết nứt này được khắc phục bằng cách bơm keo epoxy đối với những vết nứt có chiều rộng lớn hơn 0.15mm và phủ keo epoxy lên bề mặt vết nứt có chiều rộng nhỏ hơn 0.15mm.
Hoàn thành
Chiều 20 tháng 11 năm 2011, lễ thông xe hầm Thủ Thiêm được tổ chức tại hai đầu hầm. Thành phần khách mời gồm khoảng 500 lãnh đạo của Việt Nam và Nhật Bản, lãnh sự quán các nước tại Thành phố Hồ Chí Minh cùng các tập đoàn đầu tư nước ngoài.
Từ 6 giờ sáng ngày 21 tháng 11, hầm Thủ Thiêm chính thức được thông xe.
Vấn đề an toàn
90 lính cứu hỏa, 10 xe đặc chủng và một tàu chữa cháy sẽ túc trực ngày đêm để hỗ trợ cho khu vực hầm khi cần thiết. Một số phương tiện và thời gian sử dụng hầm bị hạn chế để đảm bảo độ an toàn. Ngoài ra, việc lưu thông qua hầm phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về tốc độ, đèn chiếu sáng và âm thanh. Trong hầm còn được thiết kế hệ thống báo cháy tự động và hệ thống chữa cháy phân bố dọc hầm, 41 loa phát thanh và 20 camera theo dõi. Toàn bộ hầm được thiết kế 38 cửa thoát nạn.
Tầm ảnh hưởng
Hầm Thủ Thiêm là hạng mục quan trọng nhất trong dự án đại lộ Đông – Tây. Bên cạnh việc giải toả áp lực cho cầu Sài Gòn, tuyến đường mới qua hầm rút ngắn thời gian từ trung tâm thành phố về các tỉnh miền Tây lẫn miền Đông, tạo nền tảng phát huy giao thương liên tỉnh. Hầm Thủ Thiêm góp phần lớn trong việc tạo thành mạng lưới giao thông khá hoàn chỉnh ở phía đông, giảm áp lực cho giao thông trung tâm và là động lực phát triển Khu đô thị mới Thủ Thiêm. Số lượng đền bù giải tỏa ở dự án này được đánh giá là có quy mô lớn nhất thành phố. Dự án hầm Thủ Thiêm đã cải thiện cuộc sống của hàng chục ngàn cư dân ven kênh rạch vào năm khu tái định cư và nhiều khu dân cư khác.Theo dự kiến, mỗi ngày hầm sẽ có 40.000 ôtô và 10.000 xe máy tham gia lưu thông.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN QUẬN 2
Địa bàn quận 2 từ năm 1997 đến nay khác hẳn với quận 2 cũ trước năm 1976. Trong giai đoạn 1967-1976, một phần nhỏ địa bàn quận 2 ngày nay chính là quận 9 (quận Chín) cũ của Đô thành Sài Gòn và sau đó là Thành phố Sài Gòn – Gia Định. Quận 9 khi đó gồm 02 phường: An Khánh và Thủ Thiêm (nay là các phường An Khánh, Bình An, Bình Khánh, Thủ Thiêm, An Lợi Đông).
Quận 2 cũ, trước năm 1976
Thời Pháp thuộc
Tháng 9 năm 1889, thành phố Sài Gòn được chia thành hai quận cảnh sát (arrondissement policier): Quận 1 và Quận 2, đứng đầu mỗi quận cảnh sát là vị Quận trưởng cảnh sát (Commissaire).
Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh hợp nhất thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn thành một đơn vị hành chính mới gọi là Khu (một số tài liệu gọi là “Địa phương”) Sài Gòn – Chợ Lớn (Région Saigon – Cholon ou Région de Saigon – Cholon). Quận 2 thuộc Khu Sài Gòn – Chợ Lớn.
Ngày 30 tháng 6 năm 1951, Thủ tướng chính quyền Quốc gia Việt Nam ký sắc lệnh số 311-cab/SG đổi tên Khu Sài Gòn – Chợ Lớn thành Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn. Lúc này, quận 2 thuộc Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn.
Thời Việt Nam Cộng hòa
Theo sắc lệnh số 143/NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn. Khi đó, quận 2 lại thuộc Đô thành Sài Gòn.
Ngày 27 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 110-NV về việc phân chia sáu quận đang có thành tám quận mới: Nhứt, Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy và Tám (trừ ba quận: Nhứt, Nhì, Ba giữ nguyên, các quận còn lại đều đổi tên và thay đổi địa giới hành chính). Lúc này, quận 2 (quận Nhì) trùng với địa giới quận Nhì cũ; có 04 phường: Chợ Bến Thành, Cầu Ông Lãnh, Cầu Kho, Nhà thờ Huyện Sĩ.
Năm 1962, quận Nhì lập thêm 03 phường: Bùi Viện, Nguyễn Cảnh Chân và Nguyễn Cư Trinh. Như thế lúc này quận có 07 phường.
Năm 1972, đổi tên phường Chợ Bến Thành của quận Nhì thành phường Bến Thành.
Cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, quận 2 (quận Nhì) gồm 07 phường: Bến Thành, Bùi Viện, Cầu Ông Lãnh, Cầu Kho, Nhà thờ Huyện Sĩ, Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Cư Trinh.
Giai đoạn 1975-1976
Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn – Gia Định được thành lập. Lúc này, quận 2 (quận Nhì) thuộc thành phố Sài Gòn – Gia Định cho đến tháng 5 năm 1976. Đồng thời, có những điều chỉnh do phường hiện hữu có diện tích quá nhỏ hoặc tương đối ít dân cư như, trong đó quận Nhì sáp nhập phường Bến Thành vào phường Nhà thờ Huyện Sĩ, phường mới mang tên phường Huyện Sĩ. Như thế lúc này quận Nhì còn 06 phường.
Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh thành phố Sài Gòn – Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban Nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn – Gia Định). Theo đó, quận Nhất và quận Nhì cũ hợp nhất lại thành quận 1 cho đến ngày nay. Như vậy quận 2 cũ bị giải thể vào năm 1976.
Quận 2 mới, từ năm 1997 đến nay
Ngày 6 tháng 1 năm 1997, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 03-CP về việc thành lập các quận, phường mới thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung về việc thành lập Quận 2 và các phường thuộc Quận 2 như sau:
- Thành lập Quận 2 trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các xã An Phú, An Khánh, Thủ Thiêm, Bình Trưng, Thạnh Mỹ Lợi thuộc huyện Thủ Đức.
- Quận 2 có 5.020 ha diện tích tự nhiên và 86.027 nhân khẩu.
- Thành lập các phường thuộc Quận 2 như sau:
- Thành lập phường An Phú trên cơ sở 1.042 ha diện tích tự nhiên và 6.724 nhân khẩu của xã An Phú. Phường An Phú có 1.042 ha diện tích tự nhiên và 6.724 nhân khẩu.
- Thanh lập phường Thảo Điền trên cơ sở 375 ha diện tích tự nhiên và 6.714 nhân khẩu của xã An Phú. Phường Thảo Điền có 375 ha diện tích tự nhiên và 6.714 nhân khẩu.
- Thành lập phường An Khánh trên cơ sở 169 ha diện tích tự nhiên và 12.865 nhân khẩu của xã An Khánh. Phường An Khánh có 169 ha diện tích tự nhiên và 12.865 nhân khẩu.
- Thành lập phường Bình Khánh trên cơ sở 226 ha diện tích tự nhiên và 6.580 nhân khẩu của xã An Khánh. Phường Bình Khánh có 226 ha diện tích tự nhiên và 6.580 nhân khẩu.
- Thành lập phường Bình An trên cơ sở 169 ha diện tích tự nhiên và 6.774 nhân khẩu của xã An Khánh. Phường Bình An có 169 ha diện tích tự nhiên và 6.774 nhân khẩu.
- Thành lập phường Thủ Thiêm trên cơ sở 135 ha diện tích tự nhiên và 9.325 nhân khẩu của xã Thủ Thiêm. Phường Thủ Thiêm có 135 ha diện tích tự nhiên và 9.325 nhân khẩu.
- Thành lập phường An Lợi Đông trên cơ sở 385 ha diện tích tự nhiên và 5.068 nhân khẩu của xã Thủ Thiêm. Phường An Lợi Đông có 385 ha diện tích tự nhiên và 5.068 nhân khẩu.
- Thành lập phường Bình Trưng Tây trên cơ sở 222 ha diện tích tự nhiên và 7.832 nhân khẩu của xã Bình Trưng. Phường Bình Trưng Tây có 222 ha diện tích tự nhiên và 7.832 nhân khẩu.
- Thành lập phường Bình Trưng Đông trên cơ sở 345 ha diện tích tự nhiên và 10.496 nhân khẩu của xã Bình Trưng. Phường Bình Trưng Đông có 345 ha diện tích tự nhiên và 10.496 nhân khẩu.
- Thành lập phường Cát Lái trên cơ sở 669 ha diện tích tự nhiên và 6.567 nhân khẩu của xã Thạnh Mỹ Lợi. Phường Cát Lái có 669 ha diện tích tự nhiên và 6.567 nhân khẩu.
- Thành lập phường Thạnh Mỹ Lợi trên cơ sở 1.283 ha diện tích tự nhiên và 7.091 nhân khẩu của xã Thạnh Mỹ Lợi. Phường Thạnh Mỹ Lợi có 1.283 ha diện tích tự nhiên và 7.091 nhân khẩu.
Đại Lý Gas Bình Minh Đường Nguyễn Đăng Giai, Quận 2 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách gồm 11 phường, phục vụ giao gas trên mọi nẻo đường của Quận 2. Khách hàng có nhu cầu sử dụng gas Bình Minh tại Quận 2, xin vui lòng gọi qua số (028) 6683 6644
|
|
|
|