Đại Lý Gas Đường Cách Mạng Tháng 8 Quận 3 chuyên giao lẻ các loại gas dân dụng 12kg tại nhà cho hộ gia đình, chung cư, căn hộ, chung cư cao cấp và giao sỉ gas dân dụng 12kg – gas công nghiệp 45kg cho quán ăn, nhà hàng, khách sạn, quán nhậu, văn phòng công ty, căn tin, bếp ăn công nghiệp… tại Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh. Khách hàng có nhu cầu đổi gas vui lòng gọi (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Đường Cách Mạng Tháng 8 Quận 3 với dịch vụ giao gas chuyên nghiệp:
Đại Lý Gas Đường Cách Mạng Tháng 8 Quận 3 giao gas nhanh và an toàn
Luôn giao gas Bình Minh chính hãng, có thương hiệu đảm bảo chất lượng
Bình gas chính hãng
Luôn cân bình gas tại nhà khách hàng, đảm bảo đủ ký
Cân bình gas tại nhà
Luôn kiểm tra rò rỉ gas mỗi khi giao gas để đảm bảo an toàn cho khách hàng
Kiểm tra rò rỉ bình gas
Đại Lý Gas Đường Cách Mạng Tháng 8 Quận 3 luôn có hậu mãi chu đáo
- Có đội ngũ bảo trì định kỳ bếp gas, van gas, dây dẫn gas hoàn Toàn miễn phí.
- Sửa bếp gas miễn phí cho khách hàng trong suốt quá trình sử dụng.
- Được đội ngũ của Đại Lý Gas Đường Cách Mạng Tháng 8 Quận 3 giao tận nhà.
- Hệ Thống giao gas 24 quận huyện Tp.Hồ Chí Minh.
- Khách hàng có nhu cầu ký hợp đồng, sử dụng số lượng nhiều, vui lòng liên hệ tổng đài để có chính sách giá tốt nhất.
Các Sản Phẩm Đại Lý Gas Đường Cách Mạng Tháng 8 Quận 3 Cung Cấp:
Để biết thông tin chi tiết về Đại Lý Gas Đường Cách Mạng Tháng 8 Quận 3, giá bán các loại gas Bình Minh dân dụng, gas Bình Minh công nghiệp, chính sách giao gas, chính sách hậu mãi. Quý khách vui lòng liên hệ qua số (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Đường Cách Mạng Tháng 8 Quận 3 Nhận Giao Gas Tận Nơi Cho Quý Khách
Đại Lý Gas Đường Cách Mạng Tháng 8 Quận 3 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách gồm 14 phường: Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7, Phường 8, Phường 9, Phường 10, Phường 11, Phường 12, Phường 13, Phường 14. Khách hàng thuộc khu vực Quận 3 có nhu cầu sử dụng gas vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Tại Phường 1
|
Đại Lý Gas Tại Phường 6 | Đại Lý Gas Tại Phường 11 |
Cách mạng tháng 8 là phong trào Việt Minh tiến hành khởi nghĩa chống Đế quốc Nhật Bản
Cách mạng tháng 8 là tên gọi được ngành sử học chính thống tại Việt Nam hiện nay dùng để chỉ việc phong trào Việt Minh tiến hành khởi nghĩa chống Đế quốc Nhật Bản, buộc Đế quốc Việt Nam (chính phủ bù nhìn do Đế quốc Nhật Bản thành lập và bảo hộ) bàn giao chính quyền trung ương và các địa phương và buộc Bảo Đại (vua cuối cùng của nhà Nguyễn) phải thoái vị trong tháng 8 năm 1945.
Việc chuyển giao quyền lực được Chính phủ Đế quốc Việt Nam thực hiện cơ bản trong hòa bình, ít có đụng độ dù xảy ra tranh chấp với lực lượng Nhật, Đại Việt, Hòa Hảo,… ở một số địa phương. Trừ một số địa phương tỉnh lỵ như Hải Ninh (nay thuộc Quảng Ninh), Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Vĩnh Yên nằm trong tay các đảng phái khác như Đại Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng,… và quân Tưởng Giới Thạch (Trung Quốc); chỉ trong 10 ngày, cơ sở chính quyền Việt Minh đã được thiết lập trên toàn bộ các tỉnh lỵ trên khắp Việt Nam (muộn nhất 28/8: Đồng Nai Thượng, Hà Tiên), hầu hết địa phương trong cả nước. Một số nơi có khó khăn hơn như Hà Giang, quân Tưởng Giới Thạch bức rút quân Nhật (29/8) và giải phóng luôn tỉnh này, Cao Bằng (giành chính quyền 21/8 nhưng sau đó quân Tưởng tràn vào), Lạng Sơn (giành chính quyền sau đó quân Tưởng Giới Thạch tràn vào, tháng 10 mới thành lập chính quyền cách mạng), Vĩnh Yên (Quốc dân Đảng nắm giữ), Hải Ninh – Móng Cái (Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội nắm), một số địa bàn ở Quảng Ninh (do Đại Việt, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội nắm), ở Đà Lạt (quân Nhật còn kháng cự mạnh như ngày 3/10)…
Kết quả của cuộc cách mạng là ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời cũng chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại suốt 2.000 năm trong lịch sử Việt Nam. Sau đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức Tổng tuyển cử năm 1946 trên phạm vi cả nước.
Bối cảnh lịch sử của Cách mạng tháng 8
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phe Trục gồm Đức, Ý, Nhật đánh lại phe Đồng Minh gồm Anh, Pháp, Liên Xô. Sau có Mỹ và nhiều nước nữa tham chiến (trong đó có Việt Minh, Pathet Lào, Issarak Campuchia ở Đông Dương)
Vào tháng 9 năm 1940, ngay giữa Chiến tranh thế giới thứ hai, Chính phủ Vichy của Pháp, vì đã đầu hàng Đức Quốc xã, đồng ý cho quân đội Nhật Bản đổ bộ vào Bắc Kỳ. Ngay lập tức, quân đội Nhật dùng đó làm bàn đạp ảnh hưởng đến các chiến trường Trung Quốc và Đông Nam Á. Trên thực tế, đây là một điểm quan trọng trong chiến lược quân sự của Nhật nhằm thống trị toàn bộ Đông Nam Á. Trong khi chờ đợi cuộc đại thắng của Đức tại châu Âu, Nhật tạm thời duy trì hệ thống bảo hộ của Pháp tại Đông Dương. (Trong những trận đánh lớn hồi đó có thể kể đến việc hải quân và không quân Nhật xuất phát từ Cam Ranh và Sài Gòn tiêu diệt Hạm đội Viễn Đông của Anh).
Thời gian này, Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo nhiều cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp, như Khởi nghĩa Nam Kỳ, Khởi nghĩa Bắc Sơn, Xô-viết Nghệ Tĩnh nhưng đều thất bại. Những binh lính tham gia chiến tranh Thái Lan thực hiện cuộc Binh biến Đô Lương cũng thất bại.
Vào tháng 5 năm 1941, các lực lượng ái quốc, trong đó nòng cốt là Đảng Cộng sản Đông Dương, do Hồ Chí Minh dẫn đầu, tập hợp tại một địa điểm gần biên giới Việt–Trung, tham gia một tổ chức đứng về phía Đồng Minh giành độc lập cho Việt Nam, gọi là Việt Nam Độc lập Đồng minh, thường được gọi vắn tắt là Việt Minh. Tổ chức này xây dựng một chiến khu do họ kiểm soát ở biên giới Việt–Trung. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Võ Nguyên Giáp thành lập một trung đội 34 người mang tên Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (một trong những tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam), ngay sau khi thành lập đã tiến đánh quân Nhật, mở rộng chiến khu. Trước khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, chiến khu đã bao gồm nhiều tỉnh vùng đông Bắc Bắc Bộ, gọi là chiến khu Việt Bắc.
Trong khi đó, phản ứng trước sự kiện Nhật đảo chính Pháp, giành quyền kiểm soát toàn bộ Đông Dương, ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” nhằm phát động cao trào kháng Nhật cứu nước (thay đổi hình thức tuyên truyền, tổ chức đấu tranh để thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa, tập dượt quần chúng tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền).
Dưới sự cai trị của Nhật, từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945, nạn đói khủng khiếp diễn ra làm 2 triệu người chết. Đây là thời cơ để Việt Minh xây dựng lực lượng lớn khắp cả nước, họ tập hợp nhân dân phá các kho thóc Nhật để lấy gạo phát cho dân đói. Đồng thời, một đại hội đại biểu toàn quốc họp trên chiến khu, thành lập Quốc dân Đại hội, tức quốc hội lâm thời. Khi Nhật thất bại, khởi nghĩa nổ ra trên toàn quốc, đó là Cách mạng tháng Tám. Cách mạng diễn ra nhanh chóng với sự tham gia của hầu hết dân chúng, Việt Minh giành được chính quyền trên cả nước chỉ trong khoảng mười ngày.
Tại châu Âu, Đức thất trận và đầu hàng ngày 7 tháng 5 năm 1945. Ngày 6 tháng 8, Hoa Kỳ ném hai trái bom nguyên tử trên đảo Hiroshima và Nagasaki. Ngày 15 tháng 8, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Quân Nhật tại Việt Nam dao động nhưng không tan rã, thậm chí vẫn giữ nguyên khí giới và các chốt phòng thủ. Tuyên bố Potsdam của Anh, Mỹ và Trung Hoa Dân quốc gửi Nhật ngày 26 tháng 7 không nói rõ phần lãnh thổ nào của Đông Dương sẽ do ai giải giới vũ khí mà chỉ nói các vùng lãnh thổ do Nhật Bản chiếm được bằng vũ lực sẽ được các nước đồng minh vào giải giới. Tuyên bố cũng không nhắc đến việc vùng nào do ai giải giới mà chỉ nói là phe Đồng minh (bao gồm cả Việt Minh) sẽ tham gia giải giới. Tuy nhiên, Thủ tướng Nhật lúc đó là Suzuki tuyên bố Tuyên bố Potsdam không ràng buộc thêm bất cứ nghĩa vụ nào với Nhật Bản so với Tuyên bố Cairo trước đó. Thậm chí phía Nhật đã bác bỏ Tuyên bố Potsdam. Tới 10/08/1945, phía Nhật mới chấp nhận Tuyên bố Potsdam.
Trước tình hình đó, Nhật bàn giao cho Khâm sai Bắc Kỳ, Phan Kế Toại, bộ máy hành chính địa phương, Sở Bảo An, Sở Mật thám trung ương, Sở Kiểm duyệt và một số công sở khác. Nhật chỉ giữ quyền kiểm soát Ngân hàng Đông Dương và Phủ Toàn quyền. Đầu tháng 8/1945, cán bộ Việt Minh Đoàn Xuân Tín được giao nhiệm vụ gặp Phan Kế Toại để nắm bắt tư tưởng và vận động ông ủng hộ Việt Minh, đồng thời thăm dò thái độ của Chính phủ Trần Trọng Kim. Sau đó, Khâm sai Phan Kế Toại gặp Nguyễn Khang, người do Xứ ủy Bắc Kỳ cử đến. Ông đề nghị Việt Minh tham gia Chính phủ Bảo Đại và ngừng các hoạt động chống Nhật nhưng Nguyễn Khang bác bỏ.
Diễn biến của Cách mạng tháng Tám
Chỉ thị của Hồ Chí Minh về Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Khi nhậm chức, Bộ trưởng Tư pháp Trịnh Đình Thảo của chính phủ Trần Trọng Kim đã ra lệnh thả hàng ngàn tù chính trị bị Pháp giam giữ trước đó bao gồm đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương và các đảng phái quốc gia, đồng thời cho phép các tổ chức, hội đoàn chính trị được hoạt động công khai. Tin đồn lực lượng quân Nhật sắp sửa đầu hàng đã lan tỏa khắp nơi tại miền Bắc, lợi dụng cơ hội, dân chúng đã tụ tập biểu tình, bãi công nhiều nơi, như ở Thái Bình vào ngày 11 tháng 8. Từ ngày 12 tháng 8 năm 1945, các đơn vị Giải phóng quân của Việt Minh lần lượt tiến công các đồn Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái,… và hỗ trợ nhân dân các tỉnh này tiến lên giành chính quyền tại các tỉnh lỵ.
Hội nghị toàn quốc họp ở Tân Trào ngày 13 tháng 8 năm 1945, dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh với sự tham gia của Trường Chinh (chủ tọa), Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng đã nhận định rằng, điều kiện cho Tổng khởi nghĩa đã chín muồi và chuẩn bị lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa. Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc được thành lập gồm: Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Lê Thanh Nghị và Chu Văn Tấn. Tuy nhiên, nhiều nơi nổi dậy khi chưa nhận được chỉ thị của Trung ương. Một đoàn cán bộ gồm Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Huy Cận vào Huế, và Hoàng Quốc Việt, Cao Hồng Lãnh, Nguyễn Thị Thập vào Sài Gòn để đôn đốc khởi nghĩa.
Ngày 14 tháng 8, một số cán bộ Đảng Cộng sản và Việt Minh dù chưa nhận được lệnh khởi nghĩa nhưng căn cứ vào tình hình hiện tại và chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã quyết định cùng nhân dân khởi nghĩa, khởi nghĩa lan rộng ra xã thuộc các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng như Thanh Hóa, Thái Bình,…
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, một đơn vị Giải phóng quân của Việt Minh do Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào (Tuyên Quang) kéo về bao vây, tấn công quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên.
Đại Lý Gas Đường Cách Mạng Tháng 8 Quận 3 Xin Giới Thiệu Khái Quát Đến Khách Hàng Về Quận 3
Quận 3 là một quận nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh, là một trong các quận trung tâm và cũng thuộc khu vực Sài Gòn, Bến Nghé trước đây. Quận được Pháp thành lập từ năm 1920, đến 1956 thì trở thành một phần của Đô thành Sài Gòn thuộc Việt Nam Cộng hòa.
Vị trí địa lý
Phía Bắc giáp quận Phú Nhuận.
Phía Đông Bắc giáp Quận 1, ranh giới là đường Hai Bà Trưng.
Đông Nam giáp Quận 1, ranh giới là đường Nguyễn Thị Minh Khai.
Tây Nam giáp Quận 10 qua đường Cách mạng tháng Tám.
Nam giáp đại lộ Lý Thái Tổ ngăn cách với Quận 10.
Hành chính
Trụ sở Ủy ban nhân dân Quận 3 (cũ), nay là Nhà thiếu nhi Quận 3
Quận gồm 14 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14.
Trong đó, phường 6 là trung tâm của quận.
Văn hóa – Giáo dục
Quận 3 là nơi tập trung các biệt thự thời Pháp thuộc và là quận có mật độ cây xanh cao. Ga Sài Gòn, chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Xá Lợi cũng nằm tại Quận 3.
Quận 3 cũng là nơi có cơ sở của một số đại học lớn: Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh…
Lịch sử
Thời Pháp thuộc
Sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, theo nghị định của Thống đốc Nam Kỳ, ngày 12 tháng 4 năm 1861, chính quyền Pháp thành lập thành phố Sài Gòn, trên địa bàn một số thôn của hai tổng: Bình Trị Thượng và Bình Trị Trung thuộc huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Địa giới hành chính lúc đầu của thành phố Sài Gòn chỉ gồm một phần của hai quận: Quận 1 và Quận 3 hiện nay. Tháng 1 năm 1877, Tổng thống Pháp công nhận thành phố Sài Gòn là thành phố loại I, đứng đầu là viên Đốc lý do Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm.
Đến tháng 9 năm 1889, thành phố Sài Gòn được chia thành hai quận cảnh sát (arrondissement policier): Quận 1 và Quận 2, đứng đầu mỗi quận cảnh sát là vị Quận trưởng cảnh sát (Commissaire). Tháng 12 năm 1920, lập thêm Quận 3.
Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh hợp nhất thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn thành một đơn vị hành chính mới gọi là Khu (một số tài liệu gọi là “Địa phương”) Sài Gòn – Chợ Lớn (Région Saigon – Cholon ou Région de Saigon – Cholon). Quận 3 thuộc Khu Sài Gòn – Chợ Lớn.
Ngày 30 tháng 6 năm 1951, Thủ tướng chính quyền Quốc gia Việt Nam ký sắc lệnh số 311-cab/SG đổi tên Khu Sài Gòn – Chợ Lớn thành Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn. Lúc này, Quận 3 thuộc Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn.
Thời Việt Nam Cộng hòa
Theo sắc lệnh số 143/NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn. Khi đó, quận 3 lại thuộc Đô thành Sài Gòn.
Ngày 27 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 110-NV về việc phân chia sáu quận đang có thành tám quận mới: Nhứt, Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy và Tám (trừ ba quận: Nhứt, Nhì, Ba giữ nguyên, các quận còn lại đều đổi tên và thay đổi địa giới hành chính). Lúc này, quận Ba trùng với địa giới quận 3 cũ, có 5 phường: Chí Hoà, Bàn Cờ, Đài Chiến Sĩ, Trương Minh Giảng, Yên Đổ.
Năm 1962, quận Ba giải thể phường Đài Chiến Sĩ; lập mới sáu phường: Cộng Hòa, Cư Xá Đô Thành, Hiền Vương, Lê Văn Duyệt, Phan Đình Phùng và Phan Thanh Giản. Như thế lúc này quận có 10 phường.
Năm 1969 tách đất của 2 quận: Ba, Năm để lập mới quận Mười với 4 phường (Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, Chí Hòa). Như thế quận Ba còn 8 phường.
Năm 1974 lập thêm phường Trần Quang Diệu tại quận Ba (quận này có 9 phường). Cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, quận 3 (quận Ba) gồm 09 phường: Cộng Hòa, Cư Xá Đô Thành, Bàn Cờ, Hiền Vương, Lê Văn Duyệt, Phan Đình Phùng, Trần Quang Diệu, Trương Minh Giảng, Yên Đổ.
Từ năm 1975 đến nay
Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn – Gia Định được thành lập. Lúc này, Quận 3 (Quận Ba) thuộc Thành phố Sài Gòn – Gia Định cho đến tháng 7 năm 1976.
Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh Thành phố Sài Gòn – Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn – Gia Định). Theo đó, vẫn giữ nguyên Quận 3 cũ có từ trước đó. Lúc này, các phường cũ đều giải thể, lập các phường mới có diện tích, dân số nhỏ hơn và mang tên số. Quận 3 có 25 phường, đánh số từ 1 đến 25.
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 1 chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 3 trở thành quận trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 12 tháng 9 năm 1981, giải thể ba phường: 2, 4 và 6, địa bàn các phường giải thể nhập vào các phường kế cận. Số phường trực thuộc quận 3 còn 22.
Ngày 26 tháng 8 năm 1982, theo Quyết định số 147-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, quận 3 giải thể Phường 16 và Phường 18, địa bàn các phường giải thể nhập vào các phường kế cận. Số phường trực thuộc quận 3 còn 20:
Ngày 17 tháng 9 năm 1988, ngoài Phường 1 và Phường 3 không thay đổi, quận 3 giải thể 18 phường còn lại, thay thế bằng 12 phường mang tên số mới: 2, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13 vá 14. Tổng cộng quận 3 còn 14 phường, sự phân chia đơn vị hành chính này giữ ổn định cho đến nay.
Giao thông
Quận 3 gồm những con đường đặc trưng như: Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Lý Chính Thắng, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thị Minh Khai, Bà Huyện Thanh Quan, Lê Văn Sỹ, Hai Bà Trưng, Điện Biên Phủ… Đó là những con đường lớn ở Quận 3.
Đặc biệt, đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa ở Quận 3 còn được xem là con đường chính vì nó nối liền từ sân bay Tân Sơn Nhất tới Dinh Thống Nhất – một Dinh thự lớn nhất và được đánh giá là một nét đặc trưng của Thành phố Hồ Chí Minh.
Quận 3, Quận 1 và Quận 5 là ba quận còn mang những nét đặc trưng nhất của trung tâm Sài Gòn từ xưa.
KINH TẾ
+ Cơ sở hạ tầng:
Đường bê tông nhựa có tên: 47 đường với tổng chiều dài 46.336m và diện tích 696.152m2. Trong đó, có đường Cách Mạng Tháng Tám, đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa là đường trục bắc nam của Thành phố và đường Võ Thị Sáu, đường Điện Biên Phủ là đường trục đông tây của Thành phố.
Đường hẻm: 683 đường với tổng chiều dài 77.775m và diện tích 303.277m2.
Điện, nước, viễn thông đảm bảo đáp ứng 100% nhu cầu của dân cư, cơ quan và doanh nghiệp.
Nhà ở: có 37.057 căn nhà, căn hộ với 2,5 triệu m2 bình quân 11m2/người, trong đó nhà kiên cố chiếm 62%, bán kiên cố chiếm 38%.
+ Phát triển kinh tế:
Từ năm 1975 trở về trước, Quận 3 là địa bàn dân cư, hoạt động kinh tế không đáng kể.
Qua 30 năm phát triển, hiên nay Quận 3 là một quận có các hoạt động kinh tế thuộc loại khá của Thành phố theo cơ cấu: Thương mại – dịch vụ và Công nghiệp – tiểu công nghiệp.
Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 1.146 tỷ đồng (chỉ tính các doanh nghiệp ngòai quốc; giá cố định 94), doanh thu thương mại-dịch vụ (chỉ tính các doanh nghiệp ngòai quốc doanh) đạt 23.100 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2005 đạt 711 tỷ đồng (cao hơn 32 tỉnh).
Số cơ sở sản xuất kinh doanh:
Tính đến 31/12/2005 trên địa bàn quận có 15.799 cơ sơ’ với trên 100 ngàn lao động. Riêng số lượng doanh nghiệp là 2137, đứng hàng thứ 5 sau Quận 1 và Quận Tân Bình, Quận Bình Thạnh, Quận Gò Vấp. Cụ thể:
– Doanh nghiệp công nghiệp : 245
– Doanh nghiệp xây dựng : 186
– Doanh nghiệp thương mại – dịch vụ : 1.706
– Số hộ tiểu công nghiệp : 924
– Số hộ thương mại – dịch vụ : 12.393
– Số chi nhánh sản xuất kinh doanh : 345
Về trung tâm thương mại có 4 chợ cấp Quận quản lý: Bàn Cờ, Vườn Chuối, Nguyễn Văn Trỗi, Bùi Phát; 2 siêu thị: Coopmart Nguyễn Đình Chiểu, Citymart Minh Châu; 3 trung tâm điện máy: Lộc Lê, Ideal, VietnamShop.
Đại Lý Gas Đường Cách Mạng Tháng 8 Quận 3 Nhận Giao Gas Trên Mọi Nẻo Đường Thuộc Quận 3
Đại Lý Gas Đường Cách Mạng Tháng 8 Quận 3 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách trên mọi nẻo đường của 14 phường: Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7, Phường 8, Phường 9, Phường 10, Phường 11, Phường 12, Phường 13, Phường 14. Khách hàng thuộc khu vực Quận 3 có nhu cầu sử dụng gas vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
Bà Huyện Thanh Quan | Lê Quý Đôn | Phạm Đình Toái |
Tăng Nguy Cơ Cháy Nổ ⇒ Vì Không Biết Những Việc Này
Xử Lý Đám Cháy Khí Gas – Nguồn Yuotube NTQ
Xem Thêm Các Tình Huống Khác Tại Đây
Đại Lý Gas Đường Cách Mạng Tháng 8 Quận 3 xin thông tin đến quý khách những nguyên nhân có thể dẫn đến cháy, nổ khi sử dụng gas như:
1. Không khóa bình gas ngay sau khi sử dụng xong ⇒ Luôn khóa van bình gas ngay sau khi sử dụng xong, để đảm bảo gas không bị rò rỉ.
2. Sử dụng van điều áp quá cũ (đã hết hạn sử dụng) ⇒ Thay thế định kỳ tùy theo hạn sử dụng từng loại van mà chúng ta đang sử dụng.
3. Không thay dây dẫn gas khi đã cũ, đã bị gãy, nức ⇒ Nên thay định kỳ 1 năm 1 lần. Vì dây dẫn bằng cao su nên sẽ bị chay, nức khi sử dụng lâu ngày.
4. Sử dụng Bếp gas quá cũ, không đảm bảo an toàn ⇒ Thay thế bếp mới khi thấy bếp hoạt động không an toàn nữa.
Đại Lý Gas Đường Cách Mạng Tháng 8 Quận 3
Tổng Đài Tiếp Nhận Giao Gas (028) 6683 6644
Giao Gas Tận Nơi 24 Quận Huyện TP. HCM
Có Thể Bạn Quan Tâm
>>>Bảo Trì – Kiểm Tra Rò Rỉ Gas Tại Nhà >>>