Đại Lý Gas Đường Lý Chiêu Hoàng Quận 6 chuyên giao lẻ các loại gas dân dụng 12kg tại nhà cho hộ gia đình, chung cư, căn hộ, chung cư cao cấp và giao sỉ gas dân dụng 12kg – gas công nghiệp 45kg cho quán ăn, nhà hàng, khách sạn, quán nhậu, văn phòng công ty, căn tin, bếp ăn công nghiệp… tại Quận 6, Tp. Hồ Chí Minh. Khách hàng có nhu cầu đổi gas vui lòng gọi (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Đường Lý Chiêu Hoàng Quận 6 với dịch vụ giao gas chuyên nghiệp:
Đại Lý Gas Đường Lý Chiêu Hoàng Quận 6 giao gas nhanh và an toàn
Luôn giao gas Bình Minh chính hãng, có thương hiệu đảm bảo chất lượng
Bình gas chính hãng
Luôn cân bình gas tại nhà khách hàng, đảm bảo đủ ký
Cân bình gas tại nhà
Luôn kiểm tra rò rỉ gas mỗi khi giao gas để đảm bảo an toàn cho khách hàng
Kiểm tra rò rỉ bình gas
Đại Lý Gas Đường Lý Chiêu Hoàng Quận 6 luôn có hậu mãi chu đáo
- Có đội ngũ bảo trì định kỳ bếp gas, van gas, dây dẫn gas hoàn Toàn miễn phí.
- Sửa bếp gas miễn phí cho khách hàng trong suốt quá trình sử dụng.
- Được đội ngũ của Đại Lý Gas Đường Lý Chiêu Hoàng Quận 6 giao tận nhà.
- Hệ Thống giao gas 24 quận huyện Tp.Hồ Chí Minh.
- Khách hàng có nhu cầu ký hợp đồng, sử dụng số lượng nhiều, vui lòng liên hệ tổng đài để có chính sách giá tốt nhất.
Các Sản Phẩm Đại Lý Gas Đường Lý Chiêu Hoàng Quận 6 Cung Cấp:
Để biết thông tin chi tiết về Đại Lý Gas Đường Lý Chiêu Hoàng Quận 6, giá bán các loại gas Bình Minh dân dụng, gas Bình Minh công nghiệp, chính sách giao gas, chính sách hậu mãi. Quý khách vui lòng liên hệ qua số (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Đường Lý Chiêu Hoàng Quận 6 Nhận Giao Gas Tận Nơi Cho Quý Khách
Đại Lý Gas Đường Lý Chiêu Hoàng Quận 6 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách gồm 14 phường: Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7, Phường 8, Phường 9, Phường 10, Phường 11, Phường 12, Phường 13, Phường 14. Khách hàng thuộc khu vực Quận 6 có nhu cầu sử dụng gas vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Tại Phường 1
|
Đại Lý Gas Tại Phường 6 | Đại Lý Gas Tại Phường 11
|
Lý Chiêu Hoàng vị Hoàng đế thứ 9 và cuối cùng của triều đại nhà Lý
Lý Chiêu Hoàng (Tháng 9, 1218 – Tháng 3, 1278), còn gọi là Lý Phế hậu hay Chiêu Thánh hoàng hậu, vị Hoàng đế thứ 9 và cuối cùng của triều đại nhà Lý từ năm 1224 đến năm 1225. Trong lịch sử Việt Nam, bà là vị Nữ hoàng đầu tiên và duy nhất, đặc biệt hơn là được chính Phụ hoàng Lý Huệ Tông ra chỉ truyền ngôi, dù bên trong là sự sắp đặt đầy cưỡng ép của Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ, hiện đang nắm quyền lực trong triều.
Năm 1225, Chiêu Hoàng được Trần Thủ Độ sắp xếp nhường ngôi cho Trần Cảnh (Trần Thái Tông), triều đại nhà Lý cai trị Đại Việt hơn 200 năm đã chính thức kết thúc. Sau khi nhượng vị, Chiêu Hoàng trở thành Hoàng hậu của Thái Tông cho đến khi bị phế truất vào năm 1237, vì bấy giờ bà không sinh được con nối dõi. Hiển Từ Thuận Thiên hoàng hậu, người kế vị ngôi Hoàng hậu sau đó, chính là chị ruột của bà.
Sau năm 1258, bà tái giá lấy Lê Phụ Trần, một viên tướng có công cứu giúp Thái Tông. Hai người sống với nhau hơn 20 năm và sinh được 1 trai, Thượng vị hầu Lê Tông và 1 gái, Ứng Thụy công chúa Ngọc Khuê. Bà qua đời ngay sau Thái Tông khoảng 1 năm.
Thân thế
Chiêu Hoàng ban đầu có tên là Lý Phật Kim, sau đổi là Lý Thiên Hinh, con gái thứ hai của Huệ Tông Hoành Hiếu hoàng đế và Linh Từ quốc mẫu Trần thị, sinh vào tháng 9 năm Mậu Dần (1218) tại kinh đô Thăng Long, Đại Việt, tước hiệu là Chiêu Thánh công chúa. Mẹ bà là Linh Từ quốc mẫu, là em gái ruột của Trần Thừa, cha của Trần Cảnh và Trần Liễu.
Bà có một chị gái là Thuận Thiên công chúa, sau được gả cho Khâm Minh đại vương Trần Liễu, là con trưởng của Thái Tổ Chí Hiếu hoàng đế Trần Thừa, và là anh trưởng của Trần Thái Tông.
Hoàng đế cuối cùng
Nhà Lý đã suy yếu từ thời ông nội Lý Chiêu Hoàng là Lý Cao Tông. Đến khi cha bà là Lý Huệ Tông lên ngôi, thì chính quyền nhà Lý đã quá suy yếu, để các thế lực khác tranh chấp. Khi bà được sinh ra thì mẹ bà, Thuận Trinh hoàng hậu Trần thị, em gái của Trần Tự Khánh và Trần Thừa đã là Hoàng hậu.
Năm Giáp Thân, Kiến Gia năm thứ 14 (1224), tháng 10, Lý Huệ Tông không có con trai, ông phải lập Chiêu Thánh công chúa làm Hoàng thái nữ, rồi truyền ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo, với tôn hiệu là Chiêu Hoàng.
Năm Ất Dậu, Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 2 (1225), họ Trần do nắm quyền hành, lần được ban tước quan trọng cho con em trong họ. Trần Bất Cập là cháu gọi Trần Thủ Độ bằng chú được phong Cận thị thự lục cục chi hậu, Trần Thiêm làm Chi ứng cục, Trần Cảnh làm Chính thủ.
Trần Cảnh là con quan Thái úy Trần Thừa, mới 8 tuổi được đưa vào hầu gần Chiêu Hoàng. Trần Cảnh cùng gần tuổi với Chiêu Hoàng, được Chiêu Hoàng gần gũi, yêu mến, hay trêu đùa. Trần Thủ Độ lấy dịp đó dựng nên cuộc hôn nhân giữa Chiêu Hoàng và Trần Cảnh rồi chuyển giao triều chính bằng cách để Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng. Từ đó, nhà Trần được thành lập.
Năm Ất Dậu (1225), ngày 21 tháng 10 (tức ngày 22 tháng 11), Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh. Ngày 11 tháng 12 năm ấy (tức 10 tháng 1 năm 1226), Chiêu Hoàng bỏ hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế ở điện Thiên An, dựng lên nhà Trần, sử gọi là Trần Thái Tông. Chiêu Hoàng được Thái Tông phong làm Hoàng hậu.
Từ đây, nhà Lý hoàn toàn chấm dứt sau 216 năm cai trị.
Cuộc đời bi thương của vị nữ hoàng trong lịch sử Việt Nam
Bị phế truất
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: “Bấy giờ thừa hưởng thái bình đã lâu ngày, giường mối dần bỏ, dân không biết việc binh, giặc cướp nổi lên không ngăn cấm được. Vua mới lên ngôi, đem việc nước giao cho thái úy Đàm Dĩ Mông. Dĩ Mông là người không có học thức, không có mưu thuật, lại nhu nhược không quyết đoán, chính sự ngày một đổ nát”.
Lý Huệ Tông không có con trai, về cuối đời chỉ lo ham chơi, rượu chè, quyền lực nằm trong trong tay Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ. Đến tháng 10 năm Giáp Thân (1224), Trần Thủ Độ ép vua xuống chiếu lập Chiêu Thánh làm hoàng Thái tử; không lâu sau lại bắt vua nhường ngôi cho con gái mới chỉ lên 6 tuổi.
Sự kiện này là bước ngoặt của vương triều Lý và sự bắt đầu của nhà Trần. Nó cũng làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của Lý Chiêu Hoàng.
Với âm mưu phải giành bằng được ngôi báu, Trần Thủ Độ đã sắp xếp cho cháu mình là Trần Cảnh vào hầu Lý Chiêu Hoàng, sau đó dàn xếp cho 2 “đứa trẻ” lấy nhau.
Đến tháng 11 năm Ất Dậu (1225), Trần Thủ Độ ép Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh (tức vua Trần Thái Tông). Kể từ đây, ngôi báu của họ Lý chính thức được nhường lại cho họ Trần sau “cuộc hôn phối chính trị”.
Sau khi nhường ngôi, Lý Chiêu Hoàng được phong làm Hoàng hậu, trở thành vị Hoàng hậu trẻ tuổi nhất trong lịch sử, vì khi đó bà mới 7 tuổi. Bà chung sống với Thái Tông hoàng đế hơn 10 năm, tình cảm khá sâu sắc, được Thái Tông rất yêu thương và kính trọng.
Năm Quý Tỵ, Thiên Ứng Chính Bình thứ 2 (1233), Lý hoàng hậu hạ sinh ra Thái tử Trần Trịnh, nhưng Thái tử chết ngay sau khi sinh không lâu.
Năm Đinh Dậu, Thiên Ứng Chính Bình thứ 6 (1237), Thái sư Trần Thủ Độ cùng Thiên Cực công chúa lo sợ huyết thống hoàng gia bị đứt đoạn, nên ép Thái Tông phải bỏ Lý Thiên Hinh để lấy chị dâu là Thuận Thiên công chúa đang có thai 3 tháng. Thái Tông hoàng đế phản đối, đang đêm trốn khỏi kinh thành để lên gặp sư Phù Vân ở Yên Tử nương nhờ. Thái sư vừa dỗ vừa gây sức ép, cuối cùng hoàng đế cũng phải chịu nghe theo.
Thuận Thiên công chúa được lập làm Hoàng hậu thay thế. Lý Thiên Hinh bị giáng làm Chiêu Thánh công chúa, không rõ hành trạng của bà trong thời gian sau khi bị giáng tước.
Vì chuyện này, Hoài Vương Trần Liễu nổi loạn ở sông Cái, nhiều năm nhiều tháng không ngừng. Cuối cùng, Trần Liễu đến xin Thái Tông tha tội, hai anh em ôm nhau khóc thảm thiết, tuy nhiên Trần Thủ Độ dựa vào tội trạng của Liễu mà giáng Liễu làm An Sinh vương, được ban các vùng Yên Sinh, Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Hưng, Yên Bang làm ấp thang mộc. Những tướng sĩ, quân lính đi theo làm loạn đều bị xử tử.
Tái giá với Lê Phụ Trần
Năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8 (1258), sau cuộc chiến với quân đội Mông Cổ vào năm 1258, Trần Thái Tông gả Chiêu Thánh công chúa cho Ngự sử đại phu Lê Phụ Trần, một thuộc tướng dòng dõi của Lê Đại Hành. Lê Phụ Trần vốn tên Lê Tần, người Ái Châu, con của danh tướng Lê Khâm có công giúp Trần Thái Tổ đánh dẹp Hoài Đạo vương Nguyễn Nộn.
Chiêu Thánh công chúa sống với Lê Phụ Trần được 20 năm, sinh ra con trai là Thượng vị hầu Lê Tông, con gái là Ứng Thụy công chúa Lê Ngọc Khuê. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Hậu Lê chê trách nặng lời việc vua Trần Thái Tông mang bà là vợ cũ gả cho Lê Phụ Trần là bầy tôi.
Ở Từ Sơn (Bắc Ninh) vẫn còn câu ca dao thác lời Chiêu Hoàng trách Trần Cảnh về việc này:
Trách người quân tử bạc tình
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao!
Qua đời
Đầu năm Mậu Dần, niên hiệu Bảo Phù thứ 6 (1278), tháng 3, Chiêu Thánh công chúa qua đời, thọ 61 tuổi. Bà qua đời sau gần 1 năm tròn so với Trần Thái Tông (qua đời năm 1277).
Tương truyền, bà về thăm quê Cổ Pháp (Bắc Ninh) thì qua đời tại đó, tóc bà vẫn đen nhánh, môi vẫn đỏ như son, má vẫn tươi như hoa đào. Bà được táng ở bìa rừng Báng, phía tây Thọ Lăng Thiên Đức. Bà được người đời sau lập đền thờ, gọi là Long miếu (đền Rồng). Sở dĩ Chiêu Hoàng không được thờ chung tại đền Đô mà phải thờ riêng vì bà là người bị xem là có tội với dòng họ Lý khi để mất nhà Lý.
Sách Việt sử tiêu án có chép lại thuyết dân gian rằng bà đã nhảy hồ tự sát. Nguyên văn: “Bà Chiêu Thánh mất. Bà đã bị giáng là Công chúa, rồi gả cho Phụ Trần, khi ấy mất đã 61 tuổi. Hiện nay ở tỉnh Bắc Giang, có đầm Minh Châu, giữa đầm có phiến đá to, người ta truyền lại rằng: Bà Chiêu Thánh cắp hòn đá nhảy xuống đầm mà chết, trên bờ đầm có miếu Chiêu Hoàng. Đó là thổ dân nơi đó bênh vực hồi mộ cho bà Chiêu Hoàng mà đặt ra thuyết ấy.”
Đền thờ của bà hiện nay tại Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, (tỉnh Bắc Ninh), còn gọi là Đền Rồng. Tháng 1 năm 2009, đền được nhà nước Việt Nam công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh. Tháng 4 năm 2009, đền đã bị đập bể hoàn toàn để chuẩn bị xây dựng mới, gây đau lòng cho người dân.
Đại Lý Gas Đường Lý Chiêu Hoàng Quận 6 Xin Giới Thiệu Khái Quát Đến Khách Hàng Về Quận 6
Quận 6 là một trong 24 quận và huyện trong Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn), Việt Nam. Quận có Chợ Lớn, đây được xem một khu trung tâm thương mại lớn nhất của người Hoa ở Việt Nam.
Quận 6 nằm về phía Tây Nam thành phố Hồ Chí Minh, bắc giáp với quận Tân Phú và Quận 11 có ranh giới dọc theo rạch Lò Gốm, đại lộ Hồng Bàng; đông giáp với Quận 6, có ranh giới dọc theo đường Nguyễn Thị Nhỏ, qua bến xe Chợ Lớn, đường Ngô Nhân Tịnh; nam giáp với Quận 8, có ranh giới kênh Bến Nghé (bến Trần Văn Kiểu cũ ); tây giáp với quận Bình Tân, có ranh giới là đường An Dương Vương.
Quận 6 có chợ đầu mối Bình Tây là 01 trong những trung tâm bán buôn lớn của cả nước. Thế mạnh của Quận 6 là thương mại, dịch vụ; trong đó chủ yếu là buôn bán thực hiện trao đổi sản phẩm với các tỉnh miền Tây Nam Bộ, bên cạnh đó với phần đông là dân lao động, có đông người Hoa có nhiều kinh nghiệm, nhạy bén trong sản xuất – kinh doanh, phát triển mạnh về sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
Quận 6 có tổng diện tích tự nhiên là 7,14 km2, chiếm 0,34% diện tích tự nhiên của toàn thành phố. Dân số hiện nay của Quận 6 là 252.811 người (thời điểm Tổng điều tra dân số tháng 4 năm 2011), mật độ dân số bình quân 35.408 người/km2, trong đó nữ chiếm 53%. Địa bàn Quận 6 được chia thành 14 phường (Phường 01 – Phường 14 với 74 khu phố và 1311 tổ dân phố); thành phần dân tộc, người Kinh chiếm 73,31%, người Hoa chiếm 26,10%, còn lại là người Chăm, Khơ – me, Tày, Nùng…Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng “thương mại – dịch vụ – công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp” đã được Đảng bộ Quận 6 xác định từ nhiệm kỳ VII (1996-2000), qua đó đã tạo sự chuyển biến rõ nét, tích cực trong phát triển kinh tế – xã hội của địa phương giai đoạn 2000-2010.
Vị trí địa lý
Quận 6 là quận ven nội thành, nằm ở phía Tây Nam Thành phố Hồ Chí Minh.
Phía Bắc ngăn cách với quận Tân Phú và quận 11 bởi rạch Lò Gốm, đường Tân Hóa và đại lộ Hồng Bàng.
Phía Đông giáp ranh với Quận 6 dọc theo đường Nguyễn Thị Nhỏ, đường Lê Quang Sung và đường Ngô Nhân Tịnh.
Phía Nam ngăn cách với quận 8 bởi sông Bến Nghé.
Phía Tây giáp ranh với quận Bình Tân, có ranh giới là đường An Dương Vương
Hành chính
Chợ Bình Tây, trung tâm thương mai nổi tiếng của Quận 6
Quận có 14 phường: Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7, Phường 8, Phường 9, Phường 10, Phường 11, Phường 12, Phường 13, Phường 14.
Trong đó, phường 1 là trung tâm quận.
Kinh Tế
Quận 6 đã phát huy nội lực, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước cho sự nghiêp phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương. Đặc biệt trong nhiệm kỳ IX (2005-2010), Quận 6 đã tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng “thương mại – dịch vụ – công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp”, đẩy mạnh thực hiện đề án “Các giải pháp phát huy nội lực, thu hút đầu tư, chuyển dịch kinh tế”, phát triển vững chắc các ngành công nghiệp thực phẩm, cao su – nhựa, cơ khí, chế tạo máy, giày da, dệt may… với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 17,55%. Nhiều doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, hóa mỹ phẩm, luyện kim, chế biến thực phẩm, thuộc da, dệt nhuộm, đông lạnh thủy hải sản…đã từng bước đổi mới công nghệ tiên tiến, hoạt động rất hiệu quả như Công ty cổ phần gạch Đồng Tâm, Công ty bút bi Thiên Long, Công ty hóa mỹ phẩm Mỹ Hảo, nhà máy Lưới thép Bình Tây, Công ty liên doanh Cát Tường,… Lĩnh vực dịch vụ – thương mại không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động, tổng doanh thu tăng dần hàng năm (năm 2011 đạt 60.430,322 tỷ đồng, tăng 27,22% so cùng kỳ năm 2010) với sự chủ động và nỗ lực cao của hệ thống chợ, các siêu thị, Trung tâm thương mại, Hợp tác xã vận tải, doanh nghiệp dịch vụ du lịch, hơn 82 Chi nhánh – Văn phòng giao dịch, 61 nhà hàng, khách sạn đạt tiêu chuẩn tại Quận. Kim ngạch xuất nhập khẩu cũng tăng cao (năm 2011 đạt 498,290 triệu USD, tăng 18,2% so cùng kỳ năm 2010; nhập khẩu đạt 218,5 triệu USD, tăng 20,5% so cùng kỳ năm 2010).
Lịch sử
Địa giới hành chính quận 6 trước và sau năm 1959 đều khác nhau hoàn toàn.
Thời Pháp thuộc
Năm 1874, Pháp đổi tên hạt Tham biện thành Địa hạt. Năm 1876, Pháp xoá bỏ lục tỉnh mà phân chia thành bốn khu vực mang tính quân sự, trong đó vùng quận 6 thuộc khu vực Sài Gòn.
Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh hợp nhất thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn thành một đơn vị hành chính mới gọi là Khu (một số tài liệu gọi là “Địa phương”) Sài Gòn – Chợ Lớn (Région Saigon – Cholon ou Région de Saigon – Cholon).
Ngày 22 tháng 9 năm 1941, Khu Sài Gòn – Chợ Lớn thành lập thêm quận 6. Quận 6 khi đó thuộc khu vực thành phố Sài Gòn cũ trước năm 1931, ngày nay thuộc địa giới quận 4 của Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 30 tháng 6 năm 1951, Thủ tướng chính quyền Quốc gia Việt Nam ký sắc lệnh số 311-cab/SG đổi tên Khu Sài Gòn – Chợ Lớn thành Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn. Lúc này, Quận 6 thuộc Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn.
Thời Việt Nam Cộng hòa
Theo sắc lệnh số 143/NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn. Khi đó, quận 6 lại thuộc Đô thành Sài Gòn.
Ngày 27 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 110-NV về việc phân chia sáu quận đang có thành tám quận mới: Nhứt, Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy và Tám (trừ ba quận: Nhứt, Nhì, Ba giữ nguyên, các quận còn lại đều đổi tên và thay đổi địa giới hành chính). Lúc này, quận 6 (quận Sáu) trùng với một phần địa giới của Quận 6 cũ. Năm 1959, quận Sáu có 07 phường: Bình Tây, Bình Tiên, Chợ, Phú Lâm, Bình Thới, Cầu Tre, Phú Thọ Hoà.
Năm 1969 tách đất của hai quận: Năm, Sáu để lập mới quận 11 (quận Mười Một) với 04 phường (Phú Thọ, Bình Thới, Cầu Tre, Phú Thọ Hòa). Như thế quận Sáu còn 04 phường.
Năm 1972, lập thêm phường Bình Phú tại quận Sáu (quận này có 05 phường). Cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, quận 6 (quận Sáu) gồm 05 phường: Bình Phú, Bình Tây, Bình Tiên, Chợ, Phú Lâm
Từ năm 1975 đến nay
Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn – Gia Định được thành lập. Lúc này, quận 6 (quận Sáu) thuộc thành phố Sài Gòn – Gia Định cho đến tháng 7 năm 1976.
Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh thành phố Sài Gòn – Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban Nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn – Gia Định). Theo đó, vẫn giữ nguyên quận 6 cũ có từ trước đó. Lúc này, các phường cũ đều giải thể, lập các phường mới có diện tích, dân số nhỏ hơn và mang tên số. Quận 6 có 20 phường, đánh số từ 1 đến 20.
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 1 chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 6 trở thành quận trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, theo Quyết định số 52-CP của Hội đồng Chính phủ, quận 6 giải thể ba phường: 3, 11 và 15, địa bàn ba phường giải thể nhập vào các phường kế cận; số lượng phường trực thuộc quận còn 17:
Giải thể phường 3; đất và dân cư của phường này sáp nhập vào các phường 1, 4 và 6
Giải thể phường 11; đất và dân cư của phường này sáp nhập vào các phường 5, 10 và 12
Giải thể phường 15; đất và dân cư của phường này sáp nhập vào các phường 14, 16 và 17
Ngày 14 tháng 2 năm 1987, theo Quyết định số 33-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, quận 6 giải thể 17 phường hiện hữu, thay thế bằng 14 phường mới, đánh số từ 1 đến 14. Sự phân chia đơn vị hành chính này giữ ổn định cho đến ngày nay:
Sáp nhập một phần phường 16 cũ, một phần phường 17 cũ và phường 14 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 1.
Sáp nhập một phần của phường 6 cũ với một phần của phường 1 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 2.
Sáp nhập một phần phường 16 cũ với một phần phường 19 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 3.
Đổi tên phường 17 cũ (phần còn lại) thành phường 4.
Sáp nhập một phần của phường 1 cũ với phường 4 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 5.
Sáp nhập một phần của phường 6 cũ với phường 2 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 6.
Sáp nhập một phần phường 19 cũ với phường 20 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 7.
Sáp nhập một phần phường 20 cũ với phường 18 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 8.
Sáp nhập một phần phường 10 cũ với phường 9 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 9.
Đổi tên phường 13 cũ thành phường 10.
Sáp nhập một phần phường 12 cũ với phường 5 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 11.
Sáp nhập một phần phường 10 cũ với phần còn lại của phường 12 thành 1 phường lấy tên là phường 12.
Đổi tên phường 7 cũ thành phường 13.
Đổi tên phường 18 cũ thành phường 14.
Thông tin thêm về các phường
Phường Bình Tây cũ: các phường 1, 3, 4, 7 và 8 hiện nay
Phường Chợ cũ: phường 2 hiện nay
Phường Bình Tiên cũ: các phường 5, 6 và 9 hiện nay
Phường Bình Phú cũ: các phường 10 và 11 hiện nay
Phường Phú Lâm cũ: các phường 12, 13 và 14 hiện nay
Đại Lý Gas Đường Lý Chiêu Hoàng Quận 6 Nhận Giao Gas Trên Mọi Nẻo Đường Thuộc Quận 6
Đại Lý Gas Đường Lý Chiêu Hoàng Quận 6 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách trên mọi nẻo đường của 14 phường: Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7, Phường 8, Phường 9, Phường 10, Phường 11, Phường 12, Phường 13, Phường 14. Khách hàng thuộc khu vực Quận 6 có nhu cầu sử dụng gas vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
An Dương Vương | Kinh Dương Vương |
Tăng Nguy Cơ Cháy Nổ ⇒ Vì Không Biết Những Việc Này
Xử Lý Đám Cháy Khí Gas – Nguồn Yuotube NTQ
Xem Thêm Các Tình Huống Khác Tại Đây
Đại Lý Gas Đường Lý Chiêu Hoàng Quận 6 xin thông tin đến quý khách những nguyên nhân có thể dẫn đến cháy, nổ khi sử dụng gas như:
1. Không khóa bình gas ngay sau khi sử dụng xong ⇒ Luôn khóa van bình gas ngay sau khi sử dụng xong, để đảm bảo gas không bị rò rỉ.
2. Sử dụng van điều áp quá cũ (đã hết hạn sử dụng) ⇒ Thay thế định kỳ tùy theo hạn sử dụng từng loại van mà chúng ta đang sử dụng.
3. Không thay dây dẫn gas khi đã cũ, đã bị gãy, nức ⇒ Nên thay định kỳ 1 năm 1 lần. Vì dây dẫn bằng cao su nên sẽ bị chay, nức khi sử dụng lâu ngày.
4. Sử dụng Bếp gas quá cũ, không đảm bảo an toàn ⇒ Thay thế bếp mới khi thấy bếp hoạt động không an toàn nữa.
Đại Lý Gas Đường Lý Chiêu Hoàng Quận 6
Tổng Đài Tiếp Nhận Giao Gas (028) 6683 6644
Giao Gas Tận Nơi 24 Quận Huyện TP. HCM
Có Thể Bạn Quan Tâm
>>>Bảo Trì – Kiểm Tra Rò Rỉ Gas Tại Nhà >>>