Đại Lý Gas Đường Nguyễn Kim Quận 5 chuyên giao lẻ các loại gas dân dụng 12kg tại nhà cho hộ gia đình, chung cư, căn hộ, chung cư cao cấp và giao sỉ gas dân dụng 12kg – gas công nghiệp 45kg cho quán ăn, nhà hàng, khách sạn, quán nhậu, văn phòng công ty, căn tin, bếp ăn công nghiệp… tại Quận 5, Tp. Hồ Chí Minh. Khách hàng có nhu cầu đổi gas vui lòng gọi (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Kim Quận 5 với dịch vụ giao gas chuyên nghiệp:
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Kim Quận 5 giao gas nhanh và an toàn
Luôn giao gas Bình Minh chính hãng, có thương hiệu đảm bảo chất lượng
Bình gas chính hãng
Luôn cân bình gas tại nhà khách hàng, đảm bảo đủ ký
Cân bình gas tại nhà
Luôn kiểm tra rò rỉ gas mỗi khi giao gas để đảm bảo an toàn cho khách hàng
Kiểm tra rò rỉ bình gas
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Kim Quận 5 luôn có hậu mãi chu đáo
- Có đội ngũ bảo trì định kỳ bếp gas, van gas, dây dẫn gas hoàn Toàn miễn phí.
- Sửa bếp gas miễn phí cho khách hàng trong suốt quá trình sử dụng.
- Được đội ngũ của Đại Lý Gas Đường Nguyễn Kim Quận 5 giao tận nhà.
- Hệ Thống giao gas 24 quận huyện Tp.Hồ Chí Minh.
- Khách hàng có nhu cầu ký hợp đồng, sử dụng số lượng nhiều, vui lòng liên hệ tổng đài để có chính sách giá tốt nhất.
Các Sản Phẩm Đại Lý Gas Đường Nguyễn Kim Quận 5 Cung Cấp:
Để biết thông tin chi tiết về Đại Lý Gas Đường Nguyễn Kim Quận 5, giá bán các loại gas Bình Minh dân dụng, gas Bình Minh công nghiệp, chính sách giao gas, chính sách hậu mãi. Quý khách vui lòng liên hệ qua số (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Kim Quận 5 Nhận Giao Gas Tận Nơi Cho Quý Khách
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Kim Quận 5 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách gồm 15 phường: Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7, Phường 8, Phường 9, Phường 10, Phường 11, Phường 12, Phường 13, Phường 14, Phường 15. Khách hàng thuộc khu vực Quận 5 có nhu cầu sử dụng gas vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Tại Phường 1
|
Đại Lý Gas Tại Phường 6 | Đại Lý Gas Tại Phường 11 |
Nguyễn Kim là người chỉ huy quân đội nhà Lê trung hưng
Nguyễn Kim ( 1468-1545), là người chỉ huy quân đội nhà Lê trung hưng, đã tích cực đối kháng nhà Mạc sau khi nhà Lê sơ sụp đổ. Ông đã đem con em chạy sang Ai Lao, chiêu tập binh mã, tôn lập vua Lê Trang Tông, đặt nền móng gây dựng lại nhà Lê khởi đầu thế Nam-Bắc triều (1533 – 1592).Ông là nội tổ phụ của các chúa Nguyễn và ngoại tổ phụ của các chúa Trịnh với miếu hiệu là Triệu Tổ, thụy là Tĩnh Hoàng Đế.
Thân thế
Theo Đại Nam thực lục (bộ sử của nhà Nguyễn soạn), tổ tiên họ Nguyễn trước là một họ có danh vọng ở xứ Thanh Hoa. Cha Nguyễn Kim, là Trừng quốc công Nguyễn Hoằng Dụ. Nguyễn Kim là con trưởng, làm quan triều Lê, chức Hữu vệ điện tiền tướng quân, tước An Thanh hầu.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Nguyễn Kim húy là Cam, người làng Bái Trang, huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, là con của Yên Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ và cháu của Nghĩa Quận Công Nguyễn Văn Lang.
Theo sách Đại Việt thông sử, dưới triều Mạc Đăng Dung: Hữu vệ Điện tiền tướng quân An Thanh hầu Nguyễn Kim là em của Nguyễn Hoằng Dụ
Theo nhóm tác giả Đinh Công Vỹ, Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, trong cuốn sách Nhìn lại lịch sử, nhóm tác giả này nghiên cứu phả hệ họ Nguyễn Gia Miêu cho rằng Nguyễn Kim và Nguyễn Hoằng Dụ chỉ là anh em họ. Người sinh ra Nguyễn Kim là Nguyễn Văn Lưu, anh Nguyễn Văn Lang và bác Nguyễn Hoằng Dụ.
Khởi binh chống nhà Mạc
Bối cảnh
Năm Canh Dần (1530), Mạc Đăng Dung tiếm ngôi vua được 3 năm, sợ nhân tâm không ổn định, bèn truyền ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh. Tháng Giêng năm 1530, Mạc Đăng Doanh tiếm ngôi vua, đổi niên hiệu là Đại Chính, tôn Mạc Đăng Dung làm Thái thượng hoàng.
Lê Ý, con trai An Thái công chúa khởi binh chống lại, xưng niên hiệu Quang Thiệu, hiệu triệu tướng sĩ các xứ Thanh Hóa, Nghệ An hợp binh đánh nhà Mạc. Lê Ý bị Mạc Quốc Trinh bắt vào tháng 11.
Thời ấy cha con Mạc Đăng Doanh do thoán nghịch, nên hào kiệt không phục, thổ tù các nơi khởi binh. Nguyễn Kim đóng ở nước Ai Lao, Trịnh Ngung, Trịnh Ngang chiếm cứ xứ Thái Nguyên, Vũ Văn Uyên chiếm cứ xứ Tuyên Quang. các tướng đều danh nghĩa phục quốc. Các xứ Thanh, Nghệ, Tuyên, Hưng đều không theo họ Mạc.
Khởi binh chống nhà Mạc
Năm 1529, Nguyễn Kim ở Thanh Hoa lúc ấy giữ chức Hữu vệ Điện tiền tướng quân An Thanh hầu, đem con em chạy sang nước Ai Lao. Chúa nước Sạ Đầu cho rằng Đại Việt và nước họ có quan hệ môi răng, mới đem nhân dân và đất đai Sầm Châu cấp cho Nguyễn Kim. Từ đó Nguyễn Kim nuôi dưỡng sĩ tốt, chiêu nạp kẻ chạy trốn, làm phản, ngấm tìm con cháu họ Lê lập nên để mưu khôi phục.
Tháng 12, năm 1530, Nguyễn Kim lánh nạn ở châu Sầm Thượng, Sầm Hạ nước Ai Lao thu dụng được vài nghìn người, 30 con voi và 300 con ngựa. Theo lời thỉnh cầu của các tướng, bèn dẫn quân về Thanh Hoa. Nguyễn Kim đóng quân ở Lôi Dương, bị phục binh của Ngọc Trục hầu, tướng của Mạc Đăng Doanh đánh bại.
Mùa xuân năm Tân Mão (1531), Mạc Đăng Doanh sai tướng Tây quốc công Nguyễn Kính đánh Nguyễn Kim ở xứ Thanh Hoa. Nguyễn Kim đón đánh, phá tan quân của Nguyễn Kính, sai quân đóng giữ các huyện.
Nguyễn Kính lại đánh vào Đông Sơn, Nguyễn Kim phá được, giết và bắt sống vài trăm người, rồi dẫn quân ra Gia Viễn, Điềm Độ chiêu dụ và chiếm đất.
Tháng 9, năm 1531, trời đổ mưa nhiều, nước sông dâng tràn, nhà Mạc dùng chiến thuyền tiến đánh, quân Nguyễn Kim tán loạn, không thể cố thủ. Nguyễn Kim dẫn quân trở về Ai Lao. Xứ Thanh Hoa bị đói to.
Lập vua Lê Trang Tông
Năm 1533, cựu thần nhà Lê gồm An Thanh hầu Nguyễn Kim, Hòa Trung hầu Lại Thế Vinh, Lỵ quốc công Trịnh Duy Thuận, Phúc Hưng hầu Trịnh Duy Duyệt và Tả đô đốc Trịnh Duy Liệu dựng người con rốt của vua Lê Chiêu Tông tên Duy Ninh làm vua Trang Tông; lên ngôi vua tại Ai Lao, đặt niên hiệu là Nguyên Hòa.
Vua Lê Trang Tông tấn phong cho tứ vị công thần khai quốc. Nguyễn Kim là Thượng phụ Thái sư Hưng Quốc công; Trịnh Kiểm là Dực Quận công, Trịnh Công Năng là Tuyên Quận công; Lại Thế Vinh là Hòa Quận công lại ban cho mỗi vị một quả ấn và một thanh gươm để làm tướng soái tự mang quan bản bộ đi tiêu diệt quân Mạc và phủ dụ dân chúng ở các địa phương hướng về nhà Lê Trung Hưng.
Sau khi phong Nguyễn Kim làm Thái sư Hưng quốc công chưởng nội ngoại sự, lấy trung nhân Đinh Công làm Thiếu úy Hùng Quốc Công, còn lại, người nào cũng được phong thưởng,[3] vua Trang Tông sai Trịnh Duy Liệu vượt biển sang nhà Minh, tâu cáo tội trạng của Mạc Đăng Dung và xin nhà Minh đánh dẹp. Vua Minh nhận tờ tấu, giao xuống đình nghị, định cất quân sang hỏi tội Mạc Đăng Dung.
Mạc Đăng Dung nghe tin liền viết thư cho vua nhà Minh, triều Minh cho Mạc Đăng Dung là dối trá nhưng đạo quân của tướng Minh là Cừu Loan, tuy kéo đến sát biên giới, vẫn do dự không tiến.
Tiến quân về nước
Mùa xuân năm Kỷ Hợi 1539, vua Lê Trang Tông phong Đại tướng quân Dực Nghĩa hầu Trịnh Kiểm, tước Dực quận công. Trịnh Kiểm vốn theo Thái sư Nguyễn Kim đi đánh dẹp, lập nhiều chiến công. Nguyễn Kim thấy có tài, bèn gả con gái cho. Lại phong tước cho các tướng khác, sai họ đem quân chia đường tiến binh, thanh thế lẫy lừng. Đánh vào vùng Lôi Dương, đánh bại quân nhà Mạc.
Năm 1542, vua Lê Trang Tông lấy Thuỵ quận công Hà Thọ Tường làm Ngự doanh đề thống ngự giá để mưu việc tiến đánh, sai Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim thống đốc tướng sĩ các dinh đi trước, tiến đánh các nơi ở Thanh Hoa, Nghệ An. Tướng lĩnh cũ và hào kiệt hai trấn này phần nhiều theo về, thế quân càng thêm mạnh.
Năm 1543, Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh đều đã chết, Mạc Phúc Hải lên ngôi vua. Vua Lê Trang Tông thân chinh đánh Mạc Phúc Hải, lấy được Tây Đô, phá quân của Ngụy Hoằng Vương Mạc Chính Trung, Tổng trấn Thanh Hoa là Đại tướng quân Trung Hậu hầu dẫn quân đầu hàng. Bấy giờ, Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim còn ở Ai Lao chưa theo đi. Vua Lê Trang Tông sai Tuyên quận công Trịnh Công Năng mang chiếu thư về gọi. Nguyễn Kim bèn chỉnh đốn bộ ngũ lên đường ngày, bái yết vua ở hành tại sông Nghĩa Lộ. Lê Trang Tông gia thăng Kim làm thái tể, sai làm đô tướng, tiết chế tướng sĩ các dinh, chia đường cùng tiến, bình định vùng tây nam.
Cái chết
Nguyễn Kim bị Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất đầu độc vào năm Ất Tỵ (1545). Trung Hậu hầu vốn là hàng tướng nhà Mạc, xuất thân hoạn quan, làm quan đến chức chưởng bộ, nghe tin vua Lê Trang Tông nổi quân, liền dùng kế trá hàng, muốn hại vua Lê Trang Tông. Việc không thành, Trung Hậu hầu mời Thái tể Nguyễn Kim đến dinh, bỏ ngầm thuốc độc trong quả dưa dâng lên trước mâm cỗ. Nguyễn Kim tin thật, ăn dưa, bị trúng độc, đến khi về thấy trong người khó chịu rồi mất. Hôm đó là ngày 20 tháng 5 năm Át Tỵ (1545), niên hiệu Nguyên Hòa thứ 14. Trung Hậu hầu liền trốn đi, sau lại về với Mạc Phúc Hải. Vua Lê Trang Tông vô cùng thương tiếc, truy tặng là Chiêu huân tinh công, đặt tên thụy là Trung Hiến, sai quan đem về quê ở Tống Sơn mai táng.
Truy tặng
Thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng, tôn thụy hiệu là Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vĩ Tích Chiêu Huân Tĩnh vương.
Đến đời Chúa Vũ Nguyễn Phúc Khoát thì cải thụy thành Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vĩ Tích Chiêu Huân Tĩnh vương, và truy tôn phi là Từ Tín Chiêu ý Đức phi.
Đời vua Gia Long năm thứ 5 lại truy tôn là Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Khải Vận Nhân Thánh Tĩnh Hoàng Đế, miếu hiệu là Triệu Tổ, lăng gọi là Trường Nguyên, và truy tôn phi là Từ Tín Chiêu ý Hoằng Nhân Thục Đức Tĩnh Hoàng Hậu.
Lăng Triệu Tường, tên lăng chính thức là Trường Nguyên. Lăng tọa lạc tại vùng núi Triệu Tường nên thường gọi là lăng Triệu Tường, nơi hợp táng Nguyễn Kim và vợ. Từ sau ngày nhà Nguyễn cáo chung (1945) rồi chiến tranh liên miên, khu vực lăng Trường Nguyên không được chăm sóc, dân Mường được dồn về đây lập nghiệp, thiếu ý thức tôn trọng di tích nên các kiến trúc xưa bị vi phạm hầu như không còn gì. Vào hai năm 2006-2007, dòng họ Nguyễn Phúc ở Huế đã đích thân về đây trùng tu khôi phục lại nơi thờ vọng, bia và nhà bia ở chân núi Triệu Tường. Khu vực lăng Triệu Tường mở ra một địa điểm du lịch sinh thái tâm linh.
Miếu Triệu Tường Không gian bên trong thành Triệu Tường chia làm 3 khu vực: Khu vực chính ở giữa xây Nguyên Miếu thờ Nguyễn Kim và Nguyễn Hoàng. Khu vực phía đông dựng miếu thờ Trừng Quốc Công (Nguyễn Văn Lựu-thân phụ của Nguyễn Kim), khu vực phía tây dành làm nơi trú ngụ của các quan và gia đình hộ lăng và trại lính canh lăng.
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Kim Quận 5 Xin Giới Thiệu Khái Quát Đến Khách Hàng Về Quận 5
Quận 5 là một trong 24 quận và huyện trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Quận 5 và Quận 6, hai quận này còn được gọi chung là Chợ Lớn, một khu trung tâm thương mại lớn nhất của người Hoa ở Việt Nam.
Vị trí địa lý
Quận 5 là một trong các quận thuộc khu trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh.
Tây Bắc giáp Quận 10 và Quận 11, ranh giới là đường Hùng Vương và đường Nguyễn Chí Thanh.
Phía Đông giáp Quận 1, ranh giới là đường Nguyễn Văn Cừ.
Phía Nam giáp kênh Tàu Hủ, ngăn cách với Quận 8.
Phía Tây giáp với Quận 6 bởi đường Nguyễn Thị Nhỏ, Ngô Nhân Tịnh và bến xe Chợ Lớn.
Hành chính
Quận có 15 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15.
Trong đó phường 8 là trung tâm của quận.
Lịch sử
Địa giới hành chính Quận 5 trước và sau năm 1959 đều khác nhau hoàn toàn.
Thời phong kiến
Lịch sử Quận 5 ngày nay gắn liền với sự hình thành, phát triển của khu vực Chợ Lớn và lịch sử hơn 300 năm Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1623, chúa Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi) cho thành lập đồn thu thuế Brai Konor (đồn Sài Gòn) tại Quận 5. Như vậy địa danh Sài Gòn nghĩa hẹp là để chỉ Quận 5.
Năm 1820, vùng đất này thuộc huyện Tân Long, phủ Tân Bình, trấn Phiên An. Năm 1836 thuộc huyện Tân Long, tỉnh Gia Định. Sau thuộc thành phố Chợ Lớn, tỉnh Chợ Lớn.
Thời Pháp thuộc
Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh hợp nhất thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn thành một đơn vị hành chính mới gọi là Khu (một số tài liệu gọi là “Địa phương”) Sài Gòn – Chợ Lớn (Région Saigon – Cholon ou Région de Saigon – Cholon).
Ngày 31 tháng 8 năm 1933, Khu Sài Gòn – Chợ Lớn thành lập thêm quận 5. Quận 5 khi đó thuộc khu vực thành phố Chợ Lớn cũ trước năm 1931, ngày nay thuộc địa giới Quận 6, Quận 8 và Quận 11 của Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 30 tháng 6 năm 1951, Thủ tướng chính quyền Quốc gia Việt Nam ký sắc lệnh số 311-cab/SG đổi tên Khu Sài Gòn – Chợ Lớn thành Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn. Lúc này, Quận 5 thuộc Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn.
Thời Việt Nam Cộng hòa
Theo sắc lệnh số 143/NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn. Khi đó, Quận 5 lại thuộc Đô thành Sài Gòn.
Ngày 27 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 110-NV về việc phân chia sáu quận đang có thành tám quận mới: Nhứt, Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy và Tám (trừ ba quận: Nhứt, Nhì, Ba giữ nguyên, các quận còn lại đều đổi tên và thay đổi địa giới hành chính). Lúc này, Quận 5 (Quận Năm) trùng với địa giới Quận 7 và phần địa giới thuộc Quận 5 cũ, phía bắc Kênh Tàu Hủ. Năm 1959, Quận Năm có 06 phường: An Đông, Chợ Quán, Trung ương, Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương, Phú Thọ.
Năm 1962, Quận Năm giải thể phường Trung ương; lập mới năm phường: Đồng Khánh, Hồng Bàng, Khổng Tử, Nguyễn Huỳnh Đức và Trang Tử. Như thế lúc này quận có 10 phường.
Năm 1969, tách đất của ba quận: Ba, Năm và Sáu, để lập mới quận Mười với 04 phường (Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, Chí Hòa) và quận Mười Một với 04 phường (Phú Thọ, Bình Thới, Cầu Tre, Phú Thọ Hòa). Như thế Quận Năm còn 07 phường.
Năm 1974, lập thêm phường Nguyễn Trãi tại Quận Năm, lúc này Quận có 08 phường. Cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, Quận 5 (Quận Năm) gồm 08 phường: An Đông, Chợ Quán, Đồng Khánh, Hồng Bàng, Khổng Tử, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Trãi, Trang Tử.
Từ năm 1975 đến nay
Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn – Gia Định được thành lập. Lúc này, Quận 5 (Quận Năm) thuộc Thành phố Sài Gòn – Gia Định cho đến tháng 7 năm 1976. Đồng thời, có những điều chỉnh do phường hiện hữu có diện tích quá nhỏ hoặc tương đối ít dân cư, trong đó Quận Năm sáp nhập Phường Hồng Bàng vào Phường Nguyễn Trãi, sáp nhập Phường Khổng Tử vào Phường Trang Tử. Như thế lúc này Quận 5 còn 06 phường.
Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh thành phố Sài Gòn – Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn – Gia Định). Theo đó, vẫn giữ nguyên Quận 5 cũ có từ trước đó. Lúc này, các phường cũ đều giải thể, lập các phường mới có diện tích, dân số nhỏ hơn và mang tên số. Quận 5 có 24 phường, đánh số từ 1 đến 24.
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 1 chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 5 trở thành quận trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 26 tháng 4 năm 1986, theo Quyết định số 51-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, quận 5 giải thể 24 phường hiện hữu, thay thế bằng 15 phường mới, đánh số từ 1 đến 15. Sự phân chia đơn vị hành chính này giữ ổn định cho đến nay:
Sáp nhập phường 19 và phường 20 thành một phường lấy tên là phường 1.
Giải thể phường 21, phường 22, phường 23 và phường 24 để thành lập 3 phường, lấy tên là phường 2, phường 3 và phường 4.
Sáp nhập phường 17 và phường 18 lấy tên là phường 5.
Giải thể phường 13 cũ, phường 14 cũ và phường 16 cũ để thành lập 2 phường, lấy tên là phường 6 và phường 7.
Giải thể phường 11 cũ, phường 12 cũ và phường 15 cũ để thành lập 2 phường, lấy tên là phường 8 và phường 9.
Giải thể phường 7 cũ, phường 8 cũ và phường 9 cũ để thành lập 2 phường lấy tên là phường 10 và phường 11.
Giải thể phường 1 cũ, phường 2 cũ, phường 3 cũ, phường 4 cũ, phường 5 cũ, phường 6 cũ và phường 10 cũ để thành lập 4 phường lấy tên là phường 12, phường 13, phường 14 và phường 15.
Thông tin thêm về các phường
Phường Chợ Quán cũ: các Phường 1, 2, 3 và 4 hiện nay
Phường Nguyễn Huỳnh Đức cũ: các Phường 5 và 6 hiện nay
Phường Đồng Khánh cũ: Phường 7 hiện nay
Phường An Đông cũ: các Phường 8 và 9 hiện nay
Phường Nguyễn Trãi cũ: các Phường 10 và 11 hiện nay
Phường Hồng Bàng cũ: Phường 12 hiện nay
Phường Khổng Tử cũ: Phường 13 hiện nay
Phường Trang Tử cũ: các Phường 14 và 15 hiện nay
Tên đường của quận 5 trước năm 1975
Bến Hàm Tử, Lê Quang Liêm nay là đường Võ Văn Kiệt
Đại lộ Đồng Khánh nay là đường Trần Hưng Đạo B
Đại lộ Nguyễn Hoàng nay là đường Trần Phú
Đại lộ Thành Thái nay là đường An Dương Vương
Đại lộ Pétrus Ký nay là đường Lê Hồng Phong
Đường Nguyễn Huỳnh Đức nay là đường Trần Tuấn Khải
Đường Bùi Duy Thanh nay là đường Nguyễn Văn Đừng
Đường Châu Văn Tiếp nay là đường Trần Xuân Hòa
Đường Ngô Quyền, Triệu Đà nay là đường Ngô Quyền
Đại lộ Nguyễn Văn Thoại nay là đường Lý Thường Kiệt
Đại lộ Tổng Đốc Phương nay là đường Châu Văn Liêm
Đại lộ Khổng Tử, Trần Thanh Cần nay là đường Hải Thượng Lãn Ông
Đường Nguyễn Văn Thạch nay là đường Nguyễn Thi
Đường Lý Thành Nguyên nay là đường Đỗ Ngọc Thạnh
Đại lộ Tôn Thọ Tường nay là đường Tạ Uyên
Bến Dương Công Trừng nay là đường Nguyễn Thị Nhỏ
Đường Mạnh Tử nay là đường Dương Tử Giang
Đại lộ Minh Mạng nay là đường Ngô Gia Tự
Bến Nguyễn Văn Thành nay là đường Phan Văn Khỏe
Giáo dục
Quận 5 là nơi tọa lạc của các trường trung học nổi tiếng như Trường Phổ thông Năng khiếu, THPT chuyên Lê Hồng Phong, cũng như các trường đại học lớn như Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sài Gòn (tiền thân là Trường Cao đẳng Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh), Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, cả ba trường Đại học này nằm rất gần nhau tại ngã 3 An Dương Vương – Nguyễn Văn Cừ. Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh nằm trên đường Hồng Bàng, bao quanh bởi các đường Nguyễn Trãi,Phù Đổng Thiên Vương và Tản Đà, đối diện là Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh trên đường Nguyễn Trãi (tiền thân là trường Sư phạm Thể dục Miền Nam). Hai trường đều nằm gần giao lộ nối liền với An Dương Vương, Hùng Vương, Ngô Gia Tự.
Di tích cấp quốc gia:
Khu trại giam bệnh viện Chợ Quán (nơi đồng chí Trần Phú hy sinh)
Nhà số 5 đường Châu Văn Liêm (nơi đồng chí Nguyễn Tất Thành ở trước khi ra đi tìm đường cứu nước)
Hội quán Nghĩa Nhuận.
Hội quán Tuệ Thành (Chùa Bà).
Hội quán Nghĩa An (Miếu Quan Đế hay Chùa Ông).
Hội quán Lệ Châu (Nhà thờ tổ thợ bạc).
Hội quán Quỳnh Phủ.
Hội quán Hà Chương.
Hội quán Ôn Lăng.
Đình Minh Hương Gia Thạnh.
Miếu Nhị Phủ (Chùa Ông Bổn).
Di tích cấp Thành phố:
Chùa Thiên Tôn.
Đình Tân Kiểng.
Hội quán Phước An.
Từ đường họ Lý.
Từ đường Phước Kiến.
Du lịch
Một số địa điểm nổi tiếng thu hút du khách trong và ngoài nước:
Khách sạn 5 sao Windsor Plaza
Khu phố cổ Hải Thượng Lãn Ông (kinh doanh thuốc Bắc, vàng mã)
Công viên nước Đại Thế giới
Trung tâm Văn hóa Quận 5, được xây dựng trên nền khu Đại Thế giới nổi tiếng trước năm 1975 (nơi tổ chức lễ hội Tết Nguyên Tiêu hằng năm của Thành phố Hồ Chí Minh)
Chợ Kim Biên
Chợ An Đông, được xây dựng năm 1954
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Kim Quận 5 Nhận Giao Gas Trên Mọi Nẻo Đường Thuộc Quận 5
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Kim Quận 5 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách trên mọi nẻo đường của 15 phường: Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7, Phường 8, Phường 9, Phường 10, Phường 11, Phường 12, Phường 13, Phường 14, Phường 15. Khách hàng thuộc khu vực Quận 5 có nhu cầu sử dụng gas vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
An Bình | Lý Thường Kiệt | Phú Giáo |
Tăng Nguy Cơ Cháy Nổ ⇒ Vì Không Biết Những Việc Này
Xử Lý Đám Cháy Khí Gas – Nguồn Yuotube NTQ
Xem Thêm Các Tình Huống Khác Tại Đây
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Kim Quận 5 xin thông tin đến quý khách những nguyên nhân có thể dẫn đến cháy, nổ khi sử dụng gas như:
1. Không khóa bình gas ngay sau khi sử dụng xong ⇒ Luôn khóa van bình gas ngay sau khi sử dụng xong, để đảm bảo gas không bị rò rỉ.
2. Sử dụng van điều áp quá cũ (đã hết hạn sử dụng) ⇒ Thay thế định kỳ tùy theo hạn sử dụng từng loại van mà chúng ta đang sử dụng.
3. Không thay dây dẫn gas khi đã cũ, đã bị gãy, nức ⇒ Nên thay định kỳ 1 năm 1 lần. Vì dây dẫn bằng cao su nên sẽ bị chay, nức khi sử dụng lâu ngày.
4. Sử dụng Bếp gas quá cũ, không đảm bảo an toàn ⇒ Thay thế bếp mới khi thấy bếp hoạt động không an toàn nữa.
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Kim Quận 5
Tổng Đài Tiếp Nhận Giao Gas (028) 6683 6644
Giao Gas Tận Nơi 24 Quận Huyện TP. HCM
Có Thể Bạn Quan Tâm
>>>Bảo Trì – Kiểm Tra Rò Rỉ Gas Tại Nhà >>>