Đại Lý Gas Đường Nguyễn Văn Hưởng Quận 2 chuyên giao lẻ các loại gas dân dụng 12kg tại nhà cho hộ gia đình, chung cư, căn hộ, chung cư cao cấp và giao sỉ gas dân dụng 12kg – gas công nghiệp 45kg cho quán ăn, nhà hàng, khách sạn, quán nhậu, văn phòng công ty, căn tin, bếp ăn công nghiệp… tại Quận 2, Tp. Hồ Chí Minh. Khách hàng có nhu cầu đổi gas vui lòng gọi (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Văn Hưởng Quận 2 với dịch vụ giao gas chuyên nghiệp:
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Văn Hưởng Quận 2 giao gas nhanh và an toàn
Luôn giao gas Bình Minh chính hãng, có thương hiệu đảm bảo chất lượng
Bình gas chính hãng
Luôn cân bình gas tại nhà khách hàng, đảm bảo đủ ký
Cân bình gas tại nhà
Luôn kiểm tra rò rỉ gas mỗi khi giao gas để đảm bảo an toàn cho khách hàng
Kiểm tra rò rỉ bình gas
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Văn Hưởng Quận 2 luôn có hậu mãi chu đáo
- Có đội ngũ bảo trì định kỳ bếp gas, van gas, dây dẫn gas hoàn Toàn miễn phí.
- Sửa bếp gas miễn phí cho khách hàng trong suốt quá trình sử dụng.
- Được đội ngũ của Đại Lý Gas Đường Nguyễn Văn Hưởng Quận 2 giao tận nhà.
- Hệ Thống giao gas 24 quận huyện Tp.Hồ Chí Minh.
- Khách hàng có nhu cầu ký hợp đồng, sử dụng số lượng nhiều, vui lòng liên hệ tổng đài để có chính sách giá tốt nhất.
Các Sản Phẩm Đại Lý Gas Đường Nguyễn Văn Hưởng Quận 2 Cung Cấp:
Để biết thông tin chi tiết về Đại Lý Gas Đường Nguyễn Văn Hưởng Quận 2, giá bán các loại gas Bình Minh dân dụng, gas Bình Minh công nghiệp, chính sách giao gas, chính sách hậu mãi. Quý khách vui lòng liên hệ qua số (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Văn Hưởng Quận 2 Nhận Giao Gas Tận Nơi Cho Quý Khách
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Văn Hưởng Quận 2 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách gồm 11 phường: An Khánh, An Lợi Đông, An Phú, Bình An, Bình Khánh, Bình Trưng Đông, Bình Trưng Tây, Cát Lái, Thảo Điền, Thủ Thiêm, Thạnh Mỹ Lợi. Khách hàng thuộc khu vực Quận 2 có nhu cầu sử dụng gas vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Tại Phường An Khánh
Đại Lý Gas Tại Phường An Lợi Đông
|
Đại Lý Gas Tại Phường Bình Khánh
Đại Lý Gas Tại Phường Bình Trưng Đông |
Đại Lý Gas Tại Phường Thảo Điền |
Nguyễn Văn Hưởng là Giáo sư, Bác sĩ vi trùng học và Đông y
Nguyễn Văn Hưởng (1906-1998) là Giáo sư, Bác sĩ vi trùng học và Đông y, cố Bộ trưởng Bộ Y tế, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa I, Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa II, III. Ông được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Thầy thuốc Nhân dân và Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I (1996).
Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Văn Hưởng
Nguyễn Văn Hưởng sinh ngày 22 tháng 12 năm 1906, quê tại xã Mỹ Chánh (nay là xã Mỹ Hiệp), huyện Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên (nay là tỉnh An Giang), còn có tên khác là Nguyễn Thành Tâm. Ông nội ông là thầy dạy chữ Nho, cha ông cũng học chữ Nho và kiêm luôn một ít nghề thuốc. Lúc ông lên 5 tuổi, mẹ ông mất vì dịch tả, ông nội và bà nội lần lượt qua đời. Cha ông đi làm ăn xa, nên từ năm 10 tuổi ông đã phải sống tự lập. Ông theo học tiểu học tại Cần Thơ, trung học tại Mỹ Tho và tú tài tại Sài Gòn. Năm 1927, ông học Trường Đại học Y khoa Hà Nội. Học xong 4 năm ở Hà Nội, ông lại học tiếp 2 năm ở Paris và bảo vệ luận án tốt nghiệp năm 1932.
Năm 1933, ông về nước và làm việc tại Viện Pasteur Sài Gòn trong 5 năm Nguyễn Văn Hưởng (1906-1998) là Giáo sư, Bác sĩ vi trùng học và Đông y, cố Bộ trưởng Bộ Y tế, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa I, Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa II, III. Ông được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Thầy thuốc Nhân dân và Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I (1996).
Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Văn Hưởng
Nguyễn Văn Hưởng sinh ngày 22 tháng 12 năm 1906, quê tại xã Mỹ Chánh (nay là xã Mỹ Hiệp), huyện Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên (nay là tỉnh An Giang), còn có tên khác là Nguyễn Thành Tâm. Nguyễn Văn Hưởng nội ông là thầy dạy chữ Nho, cha ông cũng học chữ Nho và kiêm luôn một ít nghề thuốc. Lúc ông lên 5 tuổi, mẹ ông mất vì dịch tả, ông nội và bà nội lần lượt qua đời. Cha ông đi làm ăn xa, nên từ năm 10 tuổi ông đã phải sống tự lập. Ông theo học tiểu học tại Cần Thơ, trung học tại Mỹ Tho và tú tài tại Sài Gòn. Năm 1927, ông học Trường Đại học Y khoa Hà Nội. Học xong 4 năm ở Hà Nội, ông lại học tiếp 2 năm ở Paris và bảo vệ luận án tốt nghiệp năm 1932.
Năm 1933, ông về nước và làm việc tại Viện Pasteur Sài Gòn trong 5 năm. Do bất bình trước thái độ phân biệt đối xử của người Pháp, năm 1939, ông thôi việc và mở phòng mạch, phòng xét nghiệm tại số nhà 224 đường Cống Quỳnh ngày nay – đây chính là phòng khám bệnh tư có kèm phòng xét nghiệm đầu tiên ở Sài Gòn.
Sau Cách mạng tháng 8, Nguyễn Văn Hưởng là thành viên Hội đồng Cố vấn ủy ban Nhân dân Nam Bộ, Trưởng ban Y tế và bào chế của Sở Y tế Nam Bộ. Sau ngày Nam Bộ kháng chiến (23/9/1945), ông tản cư về An Giang. Tháng 10 năm 1945, theo lệnh Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ, ông về Mỹ Tho để tham gia công tác y tế cách mạng. Tại đây, ông đã cùng đồng nghiệp chế tạo thành công huyết thanh chống uốn ván và nhiều loại vắc xin phòng bệnh. Trong Tổng tuyển cử 6/1/1946, ông trúng cử đại biểu Quốc hội khoá I của tỉnh Long Xuyên. Sau Hiệp định sơ bộ (6/3/1946), ông trở về Sài Gòn mở phòng mạch trở lại bình thường và tiếp tục tiếp tế thuốc men, dụng cụ y tế và cứu chữa thương binh cho chiến khu… Ở Sài Gòn, ông đã cùng Đặng Văn Trứ và cụ Lưu Văn Lang đại diện cho 200 nhà trí thức Sài Gòn ký vào bản tuyên ngôn ủng hộ Chính phủ kháng chiến chống Pháp. Năm 1947, ông trở ra khu kháng chiến, là uỷ viên Uỷ ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ kiêm Giám đốc Sở Y tế Quân dân Nam Bộ. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam vào 3 tháng 7 năm 1953.
Năm 1954, sau hiệp định Geneve, ông tập kết ra Bắc, lần lượt giữ các cương vị Trưởng đoàn đại biểu nhân dân Nam Bộ đi dự Hội nghị châu Á tại New Dehli (3/1955), Giám đốc Bệnh viện 303 (7/1955), Giám đốc Viện Vi trùng học (1956), Viện trưởng Viện nghiên cứu Ðông y kiêm Vụ Trưởng vụ Ðông y (1957), Chủ nhiệm Bộ môn Đông y (nay là khoa Y học cổ truyền) của Đại học Y Hà Nội. Tháng 1 năm 1957 của kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá I, ông được bầu làm Uỷ viên chính thức Ban Thường trực Quốc hội. Ông là đại biểu Quốc hội và là Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội các khoá II (1960-1964) và khóa III (1964-1971).
Tháng 3 năm 1969, ông chính thức trở thành Bộ trưởng Bộ Y tế Việt Nam. Năm 1971, sau một chuyến đi công tác, ông bị lâm bệnh nặng do đó nên bác sĩ Vũ Văn Cẩn đã được giao làm Quyền Bộ trưởng. Ông rời khỏi cương vị Bộ trưởng vào tháng 4 năm 1974. Năm 1975, ông làm Viện trưởng Viện Y học cổ truyền dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1983 là Cố vấn Bộ trưởng Bộ Y tế về Y học cổ truyền dân tộc. Ông còn đảm nhận các chức vụ như Phó Chủ tịch Uỷ ban đoàn kết Á – Phi của Việt Nam, Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Uỷ viên Đảng đoàn Quốc hội… Trong công tác quản lý lẫn trong nghiên cứu, ông luôn đề cao việc kết hợp Đông Tây y là phương hướng xây dựng nền y học dân tộc. Ông đã chủ trì biên soạn cuốn Phương pháp Dưỡng sinh với 72 động tác cơ bản và đã được tái bản ít nhất 12 lần. Ông cũng là người đã tìm hiểu nguyên lý khoa học, viết giáo trình đồng thời phổ biến luyện tập nhân điện kết hợp y học cổ truyền.
Nguyễn Văn Hưởng mất vào ngày 4 tháng 8 năm 1998, thọ 93 tuổi. Ngay trước khi mất, tên ông đã được đặt cho một học bổng trong lĩnh vực y tế của báo Sài Gòn Giải Phóng mang tên Học bổng Nguyễn Văn Hưởng. Ở thành phố Hồ Chí Minh (quận 2) và Hà Nội (quận Long Biên) đều có những con đường mang tên ông.
Do bất bình trước thái độ phân biệt đối xử của người Pháp, năm 1939, ông thôi việc và mở phòng mạch, phòng xét nghiệm tại số nhà 224 đường Cống Quỳnh ngày nay – đây chính là phòng khám bệnh tư có kèm phòng xét nghiệm đầu tiên ở Sài Gòn.
Sau Cách mạng tháng 8, Nguyễn Văn Hưởng là thành viên Hội đồng Cố vấn ủy ban Nhân dân Nam Bộ, Trưởng ban Y tế và bào chế của Sở Y tế Nam Bộ. Sau ngày Nam Bộ kháng chiến (23/9/1945), ông tản cư về An Giang. Tháng 10 năm 1945, theo lệnh Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ, ông về Mỹ Tho để tham gia công tác y tế cách mạng. Tại đây, ông đã cùng đồng nghiệp chế tạo thành công huyết thanh chống uốn ván và nhiều loại vắc xin phòng bệnh. Trong Tổng tuyển cử 6/1/1946, ông trúng cử đại biểu Quốc hội khoá I của tỉnh Long Xuyên. Sau Hiệp định sơ bộ (6/3/1946), ông trở về Sài Gòn mở phòng mạch trở lại bình thường và tiếp tục tiếp tế thuốc men, dụng cụ y tế và cứu chữa thương binh cho chiến khu… Ở Sài Gòn, ông đã cùng Đặng Văn Trứ và cụ Lưu Văn Lang đại diện cho 200 nhà trí thức Sài Gòn ký vào bản tuyên ngôn ủng hộ Chính phủ kháng chiến chống Pháp. Năm 1947, ông trở ra khu kháng chiến, là uỷ viên Uỷ ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ kiêm Giám đốc Sở Y tế Quân dân Nam Bộ. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam vào 3 tháng 7 năm 1953.
Năm 1954, sau hiệp định Geneve, Nguyễn Văn Hưởng tập kết ra Bắc, lần lượt giữ các cương vị Trưởng đoàn đại biểu nhân dân Nam Bộ đi dự Hội nghị châu Á tại New Dehli (3/1955), Giám đốc Bệnh viện 303 (7/1955), Giám đốc Viện Vi trùng học (1956), Viện trưởng Viện nghiên cứu Ðông y kiêm Vụ Trưởng vụ Ðông y (1957), Chủ nhiệm Bộ môn Đông y (nay là khoa Y học cổ truyền) của Đại học Y Hà Nội. Tháng 1 năm 1957 của kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá I, ông được bầu làm Uỷ viên chính thức Ban Thường trực Quốc hội. Ông là đại biểu Quốc hội và là Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội các khoá II (1960-1964) và khóa III (1964-1971).
Tháng 3 năm 1969, Nguyễn Văn Hưởng chính thức trở thành Bộ trưởng Bộ Y tế Việt Nam. Năm 1971, sau một chuyến đi công tác, ông bị lâm bệnh nặng do đó nên bác sĩ Vũ Văn Cẩn đã được giao làm Quyền Bộ trưởng. Ông rời khỏi cương vị Bộ trưởng vào tháng 4 năm 1974. Năm 1975, ông làm Viện trưởng Viện Y học cổ truyền dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1983 là Cố vấn Bộ trưởng Bộ Y tế về Y học cổ truyền dân tộc. Ông còn đảm nhận các chức vụ như Phó Chủ tịch Uỷ ban đoàn kết Á – Phi của Việt Nam, Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Uỷ viên Đảng đoàn Quốc hội… Trong công tác quản lý lẫn trong nghiên cứu, ông luôn đề cao việc kết hợp Đông Tây y là phương hướng xây dựng nền y học dân tộc. Ông đã chủ trì biên soạn cuốn Phương pháp Dưỡng sinh với 72 động tác cơ bản và đã được tái bản ít nhất 12 lần. Ông cũng là người đã tìm hiểu nguyên lý khoa học, viết giáo trình đồng thời phổ biến luyện tập nhân điện kết hợp y học cổ truyền.
Nguyễn Văn Hưởng mất vào ngày 4 tháng 8 năm 1998, thọ 93 tuổi. Ngay trước khi mất, tên ông đã được đặt cho một học bổng trong lĩnh vực y tế của báo Sài Gòn Giải Phóng mang tên Học bổng Nguyễn Văn Hưởng. Ở thành phố Hồ Chí Minh (quận 2) và Hà Nội (quận Long Biên) đều có những con đường mang tên ông.
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Văn Hưởng Quận 2 Xin Giới Thiệu Khái Quát Đến Khách Hàng Về Quận 2
Quận 2 là một quận nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 2 là quận mới đô thị hóa, nơi có Khu đô thị mới Thủ Thiêm trong tương lai gần là trung tâm tài chính thương mại mới của Thành phố Hồ Chí Minh.
Vị trí địa lý
Quận 2 là một trong năm quận nằm ở phía Đông Bắc Thành phố Hồ Chí Minh:
Phía Bắc giáp quận Thủ Đức.
Phía Nam giáp sông Sài Gòn, ngăn cách với quận 7, sông Nhà Bè, ngăn cách với huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Phía Tây theo thứ tự từ Bắc xuống Nam lần lượt ngăn cách với quận Bình Thạnh, quận 1 và quận 4 bởi sông Sài Gòn.
Phía Đông giáp quận 9.
Lịch sử
Địa bàn quận 2 từ năm 1997 đến nay khác hẳn với quận 2 cũ trước năm 1976. Trong giai đoạn 1967-1976, một phần nhỏ địa bàn quận 2 ngày nay chính là quận 9 (quận Chín) cũ của Đô thành Sài Gòn và sau đó là Thành phố Sài Gòn – Gia Định. Quận 9 khi đó gồm 02 phường: An Khánh và Thủ Thiêm (nay là các phường An Khánh, Bình An, Bình Khánh, Thủ Thiêm, An Lợi Đông).
Quận 2 cũ, trước năm 1976
Thời Pháp thuộc
Tháng 9 năm 1889, thành phố Sài Gòn được chia thành hai quận cảnh sát (arrondissement policier): Quận 1 và Quận 2, đứng đầu mỗi quận cảnh sát là vị Quận trưởng cảnh sát (Commissaire).
Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh hợp nhất thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn thành một đơn vị hành chính mới gọi là Khu (một số tài liệu gọi là “Địa phương”) Sài Gòn – Chợ Lớn (Région Saigon – Cholon ou Région de Saigon – Cholon). Quận 2 thuộc Khu Sài Gòn – Chợ Lớn.
Ngày 30 tháng 6 năm 1951, Thủ tướng chính quyền Quốc gia Việt Nam ký sắc lệnh số 311-cab/SG đổi tên Khu Sài Gòn – Chợ Lớn thành Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn. Lúc này, quận 2 thuộc Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn.
Thời Việt Nam Cộng hòa
Theo sắc lệnh số 143/NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn. Khi đó, quận 2 lại thuộc Đô thành Sài Gòn.
Ngày 27 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 110-NV về việc phân chia sáu quận đang có thành tám quận mới: Nhứt, Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy và Tám (trừ ba quận: Nhứt, Nhì, Ba giữ nguyên, các quận còn lại đều đổi tên và thay đổi địa giới hành chính). Lúc này, quận 2 (quận Nhì) trùng với địa giới quận Nhì cũ; có 04 phường: Chợ Bến Thành, Cầu Ông Lãnh, Cầu Kho, Nhà thờ Huyện Sĩ.
Năm 1962, quận Nhì lập thêm 03 phường: Bùi Viện, Nguyễn Cảnh Chân và Nguyễn Cư Trinh. Như thế lúc này quận có 07 phường.
Năm 1972, đổi tên phường Chợ Bến Thành của quận Nhì thành phường Bến Thành.
Cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, quận 2 (quận Nhì) gồm 07 phường: Bến Thành, Bùi Viện, Cầu Ông Lãnh, Cầu Kho, Nhà thờ Huyện Sĩ, Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Cư Trinh.
Giai đoạn 1975-1976
Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn – Gia Định được thành lập. Lúc này, quận 2 (quận Nhì) thuộc thành phố Sài Gòn – Gia Định cho đến tháng 5 năm 1976. Đồng thời, có những điều chỉnh do phường hiện hữu có diện tích quá nhỏ hoặc tương đối ít dân cư như, trong đó quận Nhì sáp nhập phường Bến Thành vào phường Nhà thờ Huyện Sĩ, phường mới mang tên phường Huyện Sĩ. Như thế lúc này quận Nhì còn 06 phường.
Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh thành phố Sài Gòn – Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban Nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn – Gia Định). Theo đó, quận Nhất và quận Nhì cũ hợp nhất lại thành quận 1 cho đến ngày nay. Như vậy quận 2 cũ bị giải thể vào năm 1976.
Quận 2 mới, từ năm 1997 đến nay
Ngày 6 tháng 1 năm 1997, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 03-CP về việc thành lập các quận, phường mới thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung về việc thành lập Quận 2 và các phường thuộc Quận 2 như sau:
- Thành lập Quận 2 trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các xã An Phú, An Khánh, Thủ Thiêm, Bình Trưng, Thạnh Mỹ Lợi thuộc huyện Thủ Đức.
Quận 2 có 5.020 ha diện tích tự nhiên và 86.027 nhân khẩu.
2. Thành lập các phường thuộc Quận 2 như sau:
a) Thành lập phường An Phú trên cơ sở 1.042 ha diện tích tự nhiên và 6.724 nhân khẩu của xã An Phú.
Phường An Phú có 1.042 ha diện tích tự nhiên và 6.724 nhân khẩu.
b) Thanh lập phường Thảo Điền trên cơ sở 375 ha diện tích tự nhiên và 6.714 nhân khẩu của xã An Phú.
Phường Thảo Điền có 375 ha diện tích tự nhiên và 6.714 nhân khẩu.
c) Thành lập phường An Khánh trên cơ sở 169 ha diện tích tự nhiên và 12.865 nhân khẩu của xã An Khánh.
Phường An Khánh có 169 ha diện tích tự nhiên và 12.865 nhân khẩu.
d) Thành lập phường Bình Khánh trên cơ sở 226 ha diện tích tự nhiên và 6.580 nhân khẩu của xã An Khánh.
Phường Bình Khánh có 226 ha diện tích tự nhiên và 6.580 nhân khẩu.
e) Thành lập phường Bình An trên cơ sở 169 ha diện tích tự nhiên và 6.774 nhân khẩu của xã An Khánh.
Phường Bình An có 169 ha diện tích tự nhiên và 6.774 nhân khẩu.
f) Thành lập phường Thủ Thiêm trên cơ sở 135 ha diện tích tự nhiên và 9.325 nhân khẩu của xã Thủ Thiêm.
Phường Thủ Thiêm có 135 ha diện tích tự nhiên và 9.325 nhân khẩu.
g) Thành lập phường An Lợi Đông trên cơ sở 385 ha diện tích tự nhiên và 5.068 nhân khẩu của xã Thủ Thiêm.
Phường An Lợi Đông có 385 ha diện tích tự nhiên và 5.068 nhân khẩu.
h) Thành lập phường Bình Trưng Tây trên cơ sở 222 ha diện tích tự nhiên và 7.832 nhân khẩu của xã Bình Trưng.
Phường Bình Trưng Tây có 222 ha diện tích tự nhiên và 7.832 nhân khẩu.
i) Thành lập phường Bình Trưng Đông trên cơ sở 345 ha diện tích tự nhiên và 10.496 nhân khẩu của xã Bình Trưng.
Phường Bình Trưng Đông có 345 ha diện tích tự nhiên và 10.496 nhân khẩu.
k) Thành lập phường Cát Lái trên cơ sở 669 ha diện tích tự nhiên và 6.567 nhân khẩu của xã Thạnh Mỹ Lợi.
Phường Cát Lái có 669 ha diện tích tự nhiên và 6.567 nhân khẩu.
l) Thành lập phường Thạnh Mỹ Lợi trên cơ sở 1.283 ha diện tích tự nhiên và 7.091 nhân khẩu của xã Thạnh Mỹ Lợi.
Phường Thạnh Mỹ Lợi có 1.283 ha diện tích tự nhiên và 7.091 nhân khẩu.
Hành chính
Quận 2 được chia thành 11 phường[5]: An Khánh, An Lợi Đông, An Phú, Bình An, Bình Khánh, Bình Trưng Đông, Bình Trưng Tây, Cát Lái, Thạnh Mỹ Lợi, Thảo Điền, Thủ Thiêm.
Trong đó, phường Thạnh Mỹ Lợi là trung tâm của quận.
Hạ tầng
Hiện nay trên địa bàn quận 2 đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như khu đô thị Thủ Thiêm, khu đô thị Sala, khu đô thị Cát Lái, khu đô thị Palm City, khu đô thị Marina Bay Thủ Thiêm, khu đô thị Sarah Thảo Điền, khu đô thị Empire City Thủ Thiêm, khu đô thị Lake View City, khu đô thị Citi Bella, khu đô thị Cityland Bình Trưng Đông, khu đô thị Phố Đông Village, khu đô thị Citi Home, khu đô thị Ventura, khu đô thị Spring Life, khu đô thị An Phú – An Khánh…
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Văn Hưởng Quận 2 Nhận Giao Gas Trên Mọi Nẻo Đường Thuộc Quận 2
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Văn Hưởng Quận 2 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách trên mọi nẻo đường của 11 phường: An Khánh, An Lợi Đông, An Phú, Bình An, Bình Khánh, Bình Trưng Đông, Bình Trưng Tây, Cát Lái, Thảo Điền, Thủ Thiêm, Thạnh Mỹ Lợi. Khách hàng thuộc khu vực Quận 2 có nhu cầu sử dụng gas vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
Bát Nàn |
|
Lê Hữu Kiều |
Tăng Nguy Cơ Cháy Nổ ⇒ Vì Không Biết Những Việc Này
Xử Lý Đám Cháy Khí Gas – Nguồn Yuotube NTQ
Xem Thêm Các Tình Huống Khác Tại Đây
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Văn Hưởng Quận 2 xin thông tin đến quý khách những nguyên nhân có thể dẫn đến cháy, nổ khi sử dụng gas như:
1. Không khóa bình gas ngay sau khi sử dụng xong ⇒ Luôn khóa van bình gas ngay sau khi sử dụng xong, để đảm bảo gas không bị rò rỉ.
2. Sử dụng van điều áp quá cũ (đã hết hạn sử dụng) ⇒ Thay thế định kỳ tùy theo hạn sử dụng từng loại van mà chúng ta đang sử dụng.
3. Không thay dây dẫn gas khi đã cũ, đã bị gãy, nức ⇒ Nên thay định kỳ 1 năm 1 lần. Vì dây dẫn bằng cao su nên sẽ bị chay, nức khi sử dụng lâu ngày.
4. Sử dụng Bếp gas quá cũ, không đảm bảo an toàn ⇒ Thay thế bếp mới khi thấy bếp hoạt động không an toàn nữa.
Đại Lý Gas Đường Nguyễn Văn Hưởng Quận 2
Tổng Đài Tiếp Nhận Giao Gas (028) 6683 6644
Giao Gas Tận Nơi 24 Quận Huyện TP. HCM
Có Thể Bạn Quan Tâm
>>>Bảo Trì – Kiểm Tra Rò Rỉ Gas Tại Nhà >>>