Đại Lý Gas Đường Trần Bình Quận 6 chuyên giao lẻ các loại gas dân dụng 12kg tại nhà cho hộ gia đình, chung cư, căn hộ, chung cư cao cấp và giao sỉ gas dân dụng 12kg – gas công nghiệp 45kg cho quán ăn, nhà hàng, khách sạn, quán nhậu, văn phòng công ty, căn tin, bếp ăn công nghiệp… tại Quận 6, Tp. Hồ Chí Minh. Khách hàng có nhu cầu đổi gas vui lòng gọi (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Đường Trần Bình Quận 6 với dịch vụ giao gas chuyên nghiệp:
Đại Lý Gas Đường Trần Bình Quận 6 giao gas nhanh và an toàn
Luôn giao gas Bình Minh chính hãng, có thương hiệu đảm bảo chất lượng
Bình gas chính hãng
Luôn cân bình gas tại nhà khách hàng, đảm bảo đủ ký
Cân bình gas tại nhà
Luôn kiểm tra rò rỉ gas mỗi khi giao gas để đảm bảo an toàn cho khách hàng
Kiểm tra rò rỉ bình gas
Đại Lý Gas Đường Trần Bình Quận 6 luôn có hậu mãi chu đáo
- Có đội ngũ bảo trì định kỳ bếp gas, van gas, dây dẫn gas hoàn Toàn miễn phí.
- Sửa bếp gas miễn phí cho khách hàng trong suốt quá trình sử dụng.
- Được đội ngũ của Đại Lý Gas Đường Trần Bình Quận 6 giao tận nhà.
- Hệ Thống giao gas 24 quận huyện Tp.Hồ Chí Minh.
- Khách hàng có nhu cầu ký hợp đồng, sử dụng số lượng nhiều, vui lòng liên hệ tổng đài để có chính sách giá tốt nhất.
Các Sản Phẩm Đại Lý Gas Đường Trần Bình Quận 6 Cung Cấp:
Để biết thông tin chi tiết về Đại Lý Gas Đường Trần Bình Quận 6, giá bán các loại gas Bình Minh dân dụng, gas Bình Minh công nghiệp, chính sách giao gas, chính sách hậu mãi. Quý khách vui lòng liên hệ qua số (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Đường Trần Bình Quận 6 Nhận Giao Gas Tận Nơi Cho Quý Khách
Đại Lý Gas Đường Trần Bình Quận 6 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách gồm 14 phường: Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7, Phường 8, Phường 9, Phường 10, Phường 11, Phường 12, Phường 13, Phường 14. Khách hàng thuộc khu vực Quận 6 có nhu cầu sử dụng gas vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Tại Phường 1
|
Đại Lý Gas Tại Phường 6 | Đại Lý Gas Tại Phường 11
|
Trần Bình là nhân vật chính trị thời Hán Sở và Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc
Trần Bình (? – 178 TCN), nguyên quán ở làng Hội Dũ, huyện Hương Vũ, là nhân vật chính trị thời Hán Sở và Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, từng giữ chức thừa tướng triều Hán. Ông là người thông minh tuyệt đỉnh, trí tuệ siêu phàm. Người đời sau có câu ví: Bày mưu ngang Phạm Lãi, lập mẹo tựa Trần Bình.
Thuở hàn vi
Trần Bình người Dương Vũ (nay là đông nam Nguyên Dương tỉnh Hà Nam, Trung Quốc). Sử ký Tư Mã Thiên và Hán thư không ghi rõ gia thế và cha mẹ của Trần Bình, chỉ cho biết ông có một người anh là Trần Bá. Sử ký miêu tả ông là người cao lớn đẹp trai, lại ham học hỏi. Trong khi Trần Bá thường chăm lo cày ruộng làm ăn thì Trần Bình chỉ chăm chú vào việc đọc sách, không chịu làm việc.
Thời Hán Sở
Theo Hạng Vũ
Cuối thời nhà Tần, thiên hạ quần hùng khởi nghĩa, trong đó nổi bật nhất là thế lực Trần Thắng ở đất Sở. Trần Thắng xưng Trương Sở vương, chống Tần, nhiều lần đánh bại quân Tần. Các nước chư hầu thời Chiến Quốc cũng nhân đó nổi dậy. Ở Ngụy quốc, Ngụy Cữu được quân của Trần Thắng lập làm vương. Trần Bình vốn tư thông với chị dâu, bị tội, lại thấy thiên hạ hỗn loạn, cho rằng thời cơ thành danh đã đến, bèn rời khỏi nhà, cùng đám thanh niên đến theo Ngụy Cữu. Ngụy Cữu không trọng dụng Trần Bình, lại có người gièm pha ông trước mặt Cữu. Bình sợ, bỏ trốn khỏi nước Ngụy.
Mấy năm sau, nhân Sở Bá vương Hạng Vũ tiến quân đánh Tần, Trần Bình lại xin theo Hạng Vũ, được Hạng Vũ phong làm khanh.
Sau khi diệt xong nhà Tần, Hạng Vũ cùng với Hán vương Lưu Bang tranh chấp thiên hạ. Từ năm 205 TCN, Lưu Bang bình định được Tam Tần, thế lực bắt đầu lớn mạnh, phát quân sang phía đông. Ân vương Tư Mã Ngang bỏ Sở theo Hán. Hạng Vũ sai Trần Bình mang quân đánh diệt. Trần Bình cùng những người khách nước Ngụy tiến vào nước Ân, hàng phục được Tư Mã Ngang. Khi trở về, Trần Bình được Hạng Vũ phong làm Tín Vũ Quân, chức Đô úy, ban 2000 lạng vàng.
Tuy nhiên không lâu sau quân Hán tiếp tục đông tiến, Tư Mã Ngang lại theo Hán. Hạng Vũ tức giận, sai tra xét những người trước kia tham gia đánh Tư Mã Ngang vì cho rằng họ thông đồng với Ngang từ trước. Trần Bình lo sợ, bèn bỏ trốn khỏi nước Sở sang Hán.
Trước khi bỏ trốn, Trần Bình sai niêm phong 2000 lượng vàng trước đây Hạng Vũ tặng mình, gửi trả lại, rồi cải trang bỏ trốn, lên một chiếc thuyền qua sông Hoàng Hà. Người chèo thuyền thấy Bình người đẹp lại đi một mình, ngỡ là một viên tướng bỏ trốn, chắc trong người thế nào cũng có vàng ngọc, châu báu, nên trố mắt nhìn, muốn giết Trần Bình. Trần Bình thấy vậy lo sợ, bèn cởi áo, ra chèo thuyền cùng. Người chèo thuyền thấy trên người ông không có gì, bèn thôi.
Giúp Lưu Bang
Trần Bình sang Hán, nhờ đại phu Ngụy Vô Tri mà được vào yết kiến Hán vương. Hán vương giữ Trần Bình lại, trò chuyện rất tương đắc. Biết Trần Bình từng giữ chức Đô úy ở Sở, Lưu Bang cũng phong ông làm Đô úy, được ngồi cùng xe với Lưu Bang và thống lĩnh các tướng. Nhiều tướng Hán thấy ông vừa mới sang đã được phong chức cao, không hài lòng. Lưu Bang nghe thế, càng tin tưởng và trọng dụng Trần Bình hơn.
Năm 204 TCN, Lưu Bang tiếp tục đông tiến, nhưng lại bị quân Sở đánh bại một trận lớn ở Bành Thành, quân lực suy yếu phải rút về Huỳnh Dương. Bang phong cho Trần Bình làm á tướng nước Hàn, dưới quyền Hàn vương Tín, đóng quân ở Quảng Vũ.
Chu Bột và Quán Anh thừa cơ gièm pha Trần Bình với Lưu Bang, tố cáo ông tham ô. Lưu Bang tức giận, gọi người tiến cử là Ngụy Vô Tri đến trách cứ. Vô Tri cho rằng nếu Lưu Bang dùng Trần Bình thì chỉ cần xét Bình là người có mưu kế làm lợi cho quốc gia là đã đủ, không nên coi trọng những việc nhỏ nhặt. Lưu Bang hơi xiêu lòng, nhưng vẫn gọi Trần Bình đến trách ông là người bội nghĩa. Ông tự biện hộ rằng:
Thần thờ Ngụy vương, Ngụy vương không biết mưu kế của thần, cho nên thần bỏ đi thờ Hạng Vương. Hạng vương không biết tin người, những người ông ta yêu chẳng qua chỉ là họ Hạng với bên anh em vợ, tuy có kẻ sĩ tài năng cũng không chịu dùng, nên thần bỏ Sở theo Đại vương. Thần nghe Đại vương biết dùng người, cho nên mới mình trần mà sang đây. Nếu thần không lấy vàng thì không có gì dùng, nếu như mưu kế của thần có cái gì có thể dùng được, thì xin đại vương dùng; nếu không dùng được thì số vàng vẫn còn ở đấy cả, thần xin gói lại nộp vào của công, xin được từ chức mà về.
Lưu Bang nghe thế cảm phục, đích thân tạ lỗi với Trần Bình. rồi phong ông làm Hộ quân trung úy. Các tướng khác không dám nói gièm pha thêm nữa.
Nằm 204 TCN, quân Sở vây thành Huỳnh Dương rất ngặt, thành sắp vỡ, vua tôi Lưu Bang chờ chết thì Trần Bình bày mưu kế đánh lừa Hạng Vũ. Ông cho Kỷ Tín, 1 người có tướng mạo giống Hán Vương, ăn mặc quần áo quân vương, ngồi trong cỗ xe huỳnh ốc của Nhà vua ra phía cửa Đông thành đầu hàng Hạng Vũ. Quân Hạng Vũ thấy vậy lơ là phòng bị, tập trung hết ở Đông thành xem mặt Hán Vương, phía tây thành bỏ trống. Lưu Bang, Trần Bình cùng các tướng lẻn theo lối này thoát vây quân Sở. Trí khôn tuyệt thế của Trần Bình đã có sức mạnh hơn ngàn binh mã, cứu sống Lưu Bang.
Cũng trong năm 204 TCN, Lưu Bang khốn đốn, phải xin cắt Huỳnh Dương để giảng hòa nhưng Hạng Vũ không nghe. Trần Bình hiến kế cho Lưu Bang dùng vàng bạc li gián vua tôi Hạng Vũ. Lưu Bang cho là phải, trao ông 4000 lạng vàng sang nước Sở thỏa sức tiêu dùng, không hỏi đến việc phân phát thế nào.
Đến Sở, Trần Bình xuất tiền mua chuộc phản gián vào quân Sở, phao tin nhóm Chung Ly Muội làm tướng của Hạng Vương, tuy lập được nhiều công trạng nhưng không được cắt đất phong hầu, đã muốn hợp quân với Hán mà phản Sở. Hạng Vũ không tin Chung Ly Muội, muốn điều tra, bèn sai sứ đến Hán, dâng thái lao. Lưu Bang giả vờ kinh ngạc nói
Ta tưởng là sứ giả của Á Phụ, hóa ra sứ giả của Hạng vương!.
Sứ giả về Sở, thuật lại lời của Lưu Bang. Hạng Vũ do đó nghi ngờ Phạm Tăng. Khi Tăng muốn đánh gấp để hạ thành Huỳnh Dương, tiêu diệt Lưu Bang thì Hạng vương không chịu nghe theo. Phạm Tăng tức giận, từ chức về Bành Thành thì bệnh chết, nước Sở mất một tướng tài.
Trần Bình sau đó về Hán. Lưu Bang lại nghe theo kế của Trần Bình, cho hai nghìn người con gái ra cửa đông thành Huỳnh Dương. Quân Sở thấy vậy, tập trung ở phía đông. Lưu Bang và Trần Bình nhân đó theo cửa tây ra khỏi Huỳnh Dương, về phía tây tập hợp lại lực lượng.
Thời Hán Cao Đế
Lập mưu bắt Hàn Tín
Năm 203 TCN, đại tướng Hàn Tín kéo quân vào chiếm nước Tề, tự lập làm Tề vương, sai sứ thông báo với Lưu Bang. Lúc này Lưu Bang lại bị Hạng Vũ vây khốn ở Huỳnh Dương lần thứ hai. Khi sứ giả của Hàn Tín đến xin cầu phong tước vương, Lưu Bang cả giận vì Tín không chịu mang quân cứu. Trần Bình vội giẫm lên chân Lưu Bang để nhắc nhở. Lưu Bang tỉnh ngộ, bèn sai Trương Lương về phía đông, đồng ý phong vương cho Hàn Tín. Sau đó, Lưu Bang phong cho Trần Bình thức ấp ở làng Hộ Dũ.
Năm 202 TCN, Lưu Bang đánh bại quân của Hạng Vũ lên ngôi xưng đế. Tháng 7 năm 202 TCN, Trần Bình theo Lưu Bang đánh nước Yên, dẹp được Yên vương Tạng Đồ.
Năm 201 TCN, có người dâng thư nói Hàn Tín làm phản, các tướng đề nghị khởi binh đi đánh. Trần Bình can không nên dùng binh vì Hàn Tín giỏi quân sự, Lưu Bang không thể thắng, mà nên giả vờ đi chơi đến đầm Vân mộng, họp chư hầu ở đất Trần; Hàn Tín ở gần đó sẽ phải đến nghênh tiếp, có thể nhân đấy bắt sống.
Lưu Bang nghe theo, quả nhiên bắt sống được Hàn Tín, giáng làm Hoài Âm hầu.
Lưu Bang phong cho Bình đời đời làm Hộ Dũ hầu, ông đề nghị Lưu Bang thưởng cho Ngụy Vô Tri là người tiến cử ông. Lưu Bang bèn trọng thưởng cho Vô Tri.
Kế lạ cứu vua
Năm 201 TCN, quân Hung Nô kéo quân đánh nhà Hán, Hàn vương Tín đầu hàng.
Năm 200 TCN, Cao Đế đem quân đánh Hung Nô, bị quân Hung Nô đánh bại một trận lớn ở Bạch Đăng và bị vây khốn ở Bành Thành trong 7 ngày. Quân sĩ mệt mỏi sắp không thể chịu nổi thì Trần Bình hiến kế với Cao Đế sai sứ tặng cho Yên Chi hoàng hậu của vua Hung Nô một bức tranh vẽ người con gái đẹp nhất Hán quốc mà Lưu Bang định tặng vua Hung Nô để xin giảng hòa, Yên Chi nổi cơn ghen tác động thiền vu Mặc Đốn lui binh. Quân Hán được giải vây.
Không lâu sau, Cao Đế tuần thu ở Khúc Nghịch, thấy phong cảnh đông đúc, bèn đem phong 5000 hộ ở đấy cho Trần Bình, hiệu là Khúc Nghịch hầu, bỏ đất phong trước đây của ông là Hộ Dũ.
Bắt Phàn Khoái
Những năm tiếp theo, Trần Bình tiếp tục tham gia các chiến dịch dẹp loạn Trần Hy, Anh Bố, sáu lần bày kế cho Cao Đế, đều thành công và được thưởng công bằng việc nâng thêm phong ấp. Tuy nhiên các kế của ông rất bí mật, người đời sau không ai biết.
Năm 195 TCN, Yên vương Lư Quán làm phản, Hán Cao Đế đang bị bệnh, sai Phàn Khoái đánh dẹp. Sau có người gièm pha Phàn Khoái muốn tạo phản, Lưu Bang sai Trần Bình và Chu Bột đánh Phàn Khoái, dặn khi vào cứ chém đầu Khoái không cần tâu trước. Trần Bình cùng Chu Bột đến trại Phàn Khoái, bắt được Khoái, nhưng Trần Bình biết Hán Cao Đế sắp mất rồi, mà Phàn Khoái lại có vợ là Lã Tu, em gái Lã hậu, nếu giết Khoái e Lã hậu sẽ oán mình, nên chỉ bãi chức Phàn Khoái và một mình áp giải về Trường An, để Chu Bột ở lại tiếp tục bình định đất Yên.
Đang trên đường về, Bình nghe tin Cao Đế đã chết, Huệ Đế nối ngôi, bèn phi ngựa về kinh trước, bỏ xe tù và Phàn Khoái phía sau. Lã Thái hậu ban chiếu cho Trần Bình đóng ở Huỳnh Dương. Ông nhận chiếu, nhưng sau đó lại nhanh chóng về Trường An khóc tang Cao Đế. Lã hậu có ý thương, phong làm Lang Trung lệnh, ra lệnh dạy dỗ Huệ Đế. Còn Phàn Khoái sau đó được xá miễn và phục tước.
Thời Huệ Đế, Cao hậu
Nịnh họ Lã, cứu họ Lưu
Năm 189 TCN, thừa tướng Tào Tham qua đời, Lã Thái hậu phong Vương Lăng làm Hữu Thừa tướng ngôi thứ nhất, Trần Bình làm Tả Thừa tướng ngôi thứ hai. Sang năm 187 TCN, Hán Huệ Đế băng hà, Lã hậu lập Thiếu Đế lên ngôi, lại muốn phong cho thân thích họ Lã làm vương, bèn hỏi Vương Lăng. Lăng can gián đến cùng. Thái hậu hỏi Trần Bình và Chu Bột, hai ông lựa lời nói thuận theo để vừa lòng Lã hậu.
Lã hậu bằng lòng. Vương Lăng do đó trách cứ Trần Bình và Chu Bột. Trần Bình nói
Hôm nay bẻ thái hậu trước mặt, can gián giữa triều đình thì chúng tôi không bằng ông. Nhưng việc bảo toàn xã tắc, giữ vững cho con cháu họ Lưu thí ông sẽ không bằng chúng tôi.
Tháng 11 năm đó, Lã hậu bãi chức Vương Lăng, đổi làm Thái phó cho Thiếu Đế nhưng không có thực quyền, rồi đổi Trần Bình làm hữu thừa tướng, Thẩm Tự Cơ làm Tả thừa tướng. Sau đó, Lã hậu tôn cha mình là Lịch hầu làm Lã Điệu Vũ vương, lập anh mình là Lịch hầu Lã Thai làm Lã Túc vương, sau đó giết chết nhiều vương chư hầu họ Lưu để lập họ Lã lên thay.
Em Thái hậu là Lã Tu, cũng là vợ Phàn Khoái, hận việc trước đây Trần Bình bàn mưu với Cao Đế để giết Khoái, thường gièm pha ông háo sắc và thích uống rượu trước mặt thái hậu. Trần Bình thấy vậy càng làm dữ hơn trước. Thái hậu chẳng những không giận mà còn mừng rỡ, khuyên ông đừng để ý đến những lời của Lã Tu.
Dẹp loạn họ Lã
Năm 180 TCN, Lã Thái hậu mắc bệnh nặng, bèn sai Triệu Vương Lã Lộc làm thượng tướng quân, coi cánh quân ở phía bắc, Lã Vương Sản coi cánh quân phía nam để đề phòng các đại thần lật đổ họ Lã sau khi bà qua đời. Rồi phong Lã Sản làm thừa tướng, lấy con gái Lã Lộc làm Hoàng hậu cho Thiếu đế để tăng cường vây cánh.
Cùng năm đó, Lã Thái hậu qua đời, các đại thần và tôn thất họ Lưu bắt đầu nổi dậy. Chứ Khư hầu Lưu Chương còn Điệu Huệ vương nước Tề, cháu nội Cao Đế muốn đánh họ Lã để lập anh mình là Tề vương Lưu Tương làm thiên tử, bèn xin Tề Vương đem binh về hướng tây giết họ Lã mà làm vua, Chư Khư hầu và Đông Mưu hầu Hầu cùng các quan đại thần sẽ làm nội ứng.
Trước sức mạnh của quân Tề, thừa tướng Lã Sản sai Quán Anh cầm binh đánh dẹp, nhưng Quán Anh lại bàn với quân lính, đóng binh ở Huỳnh Dương, và sai sứ đến phía đông liên kết với Tề vương, dự định khi họ Lã làm biến sẽ tiêu diệt.
Trần Bình bàn với Chu Bột, thấy người con của Khúc Chu Hầu Lịch Thương là Lịch Ký thân với Lã Lộc, bèn ép Lịch Thương bảo con đến nói với Lã Lộc nếu ở lại kinh cầm binh sẽ bị nghi ngờ, chi bằng trao ấn cho Thái úy mà về nước Triệu. Nội bộ họ Lã biết việc ấy, nhưng chưa dứt khoát quyết định. Lã Tu biết được mưu đồ đó, không đồng ý.
Lã Lộc và Lã Sản quyết định phát động binh biến nhưng lại do dự. Nhưng cùng lúc Chu Bột bảo tướng Kỷ Thông cầm cờ tiết giả làm lệnh hoàng đế trao cho mình cầm đầu đạo quân phía bắc rồi ra lệnh cho Lịch Ký và Lưu Yết tới thuyết phục Lã Lộc lần nữa. Lã Lộc nghe theo, trả tướng ấn lại, giao cho Chu Bột cầm quân. Chu Bột nắm được đạo quân phía nam. Trần Bình sai Chu Khư hầu đến giúp Chu Bột, giết được Lã Sản ở cung Vị Ương, diệt tộc họ Lã, lập Đại vương Hằng lên ngôi Hán Văn Đế. Trần Bình lập được công to trong sự biến này.
Thời Văn đế
Văn Đế lên ngôi, Trần Bình cáo ốm, xin nhường tướng ấn lại cho Chu Bột. Hán Văn đồng ý, phong Bột làm Hữu Thừa tướng, còn Bình làm Tả thừa tướng ngôi thứ hai, lại ban cho ông 1000 cân vàng và phong ấp thêm 3000 hộ, nâng tổng số thực ấp của Trần Bình lên vạn hộ.
Trần Bình thấy Chu Bột có công chỉ huy quân sĩ lật đổ họ Lã, muốn nhường địa vị tôn quý cho Bột, bèn cáo bệnh. Hán Văn Đế bèn cho Chu Bột làm hữu thừa tướng ngôi thứ nhất, Bình dời chức làm tả thừa tướng, ngôi thứ nhì, cho ông một nghìn cân vàng lại phong thêm ba ngàn hộ.
Nhưng Chu Bột chỉ là tướng giỏi việc quân sự không quen việc hành chính. Khi bị Hán Văn Đế trách, Chu Bột thẹn cáo bệnh xin từ chức, để một mình Trần Bình làm thừa tướng.
Năm 178 TCN, Trần Bình qua đời, được đặt tên thụy là Hiến Hầu. Con ông là Trần Mại tập tước làm Cung hầu.
Hậu duệ
Năm 178 TCN, Trần Bình qua đời, thụy là Khúc Nghịch Hiến hầu. Con là Trần Mại nối tước, tức Cung hầu, hai năm sau thì mất, con là Trần Khôi nối tước, tức Giản hầu, 23 năm sau thì mất. Con Khôi là Hà nối tước. Năm 130 TCN, Hà phạm tội cướp vợ người khác nên bị chém ở chợ, tước vị xóa bỏ.
Lúc sinh thời, Trần Bình từng nói:
Ta nhiều âm mưu, trong Đạo gia kiêng kị điều đó. Phú quý mà ta có, hết đời ta là thôi, đời sau không thể hưng khởi được nữa, đó là vì ta nhiều âm báo.
Về sau chắt ông là Trần Chưởng, sống vào thời Hán Vũ Đế. Lúc đó họ Vệ được sủng ái. Sau đó người chắt là Trần Chưởng nhờ bên họ ngoại nhà vua là họ Vệ, muốn họ Trần được phong lại, nhưng cuối cùng cũng không được.
Đại Lý Gas Đường Trần Bình Quận 6 Xin Giới Thiệu Khái Quát Đến Khách Hàng Về Quận 6
Quận 6 là một trong 24 quận và huyện trong Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn), Việt Nam. Quận có Chợ Lớn, đây được xem một khu trung tâm thương mại lớn nhất của người Hoa ở Việt Nam.
Quận 6 nằm về phía Tây Nam thành phố Hồ Chí Minh, bắc giáp với quận Tân Phú và Quận 11 có ranh giới dọc theo rạch Lò Gốm, đại lộ Hồng Bàng; đông giáp với Quận 6, có ranh giới dọc theo đường Nguyễn Thị Nhỏ, qua bến xe Chợ Lớn, đường Ngô Nhân Tịnh; nam giáp với Quận 8, có ranh giới kênh Bến Nghé (bến Trần Văn Kiểu cũ ); tây giáp với quận Bình Tân, có ranh giới là đường An Dương Vương.
Quận 6 có chợ đầu mối Bình Tây là 01 trong những trung tâm bán buôn lớn của cả nước. Thế mạnh của Quận 6 là thương mại, dịch vụ; trong đó chủ yếu là buôn bán thực hiện trao đổi sản phẩm với các tỉnh miền Tây Nam Bộ, bên cạnh đó với phần đông là dân lao động, có đông người Hoa có nhiều kinh nghiệm, nhạy bén trong sản xuất – kinh doanh, phát triển mạnh về sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
Quận 6 có tổng diện tích tự nhiên là 7,14 km2, chiếm 0,34% diện tích tự nhiên của toàn thành phố. Dân số hiện nay của Quận 6 là 252.811 người (thời điểm Tổng điều tra dân số tháng 4 năm 2011), mật độ dân số bình quân 35.408 người/km2, trong đó nữ chiếm 53%. Địa bàn Quận 6 được chia thành 14 phường (Phường 01 – Phường 14 với 74 khu phố và 1311 tổ dân phố); thành phần dân tộc, người Kinh chiếm 73,31%, người Hoa chiếm 26,10%, còn lại là người Chăm, Khơ – me, Tày, Nùng…Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng “thương mại – dịch vụ – công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp” đã được Đảng bộ Quận 6 xác định từ nhiệm kỳ VII (1996-2000), qua đó đã tạo sự chuyển biến rõ nét, tích cực trong phát triển kinh tế – xã hội của địa phương giai đoạn 2000-2010.
Vị trí địa lý
Quận 6 là quận ven nội thành, nằm ở phía Tây Nam Thành phố Hồ Chí Minh.
Phía Bắc ngăn cách với quận Tân Phú và quận 11 bởi rạch Lò Gốm, đường Tân Hóa và đại lộ Hồng Bàng.
Phía Đông giáp ranh với Quận 6 dọc theo đường Nguyễn Thị Nhỏ, đường Lê Quang Sung và đường Ngô Nhân Tịnh.
Phía Nam ngăn cách với quận 8 bởi sông Bến Nghé.
Phía Tây giáp ranh với quận Bình Tân, có ranh giới là đường An Dương Vương
Hành chính
Chợ Bình Tây, trung tâm thương mai nổi tiếng của Quận 6
Quận có 14 phường: Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7, Phường 8, Phường 9, Phường 10, Phường 11, Phường 12, Phường 13, Phường 14.
Trong đó, phường 1 là trung tâm quận.
Kinh Tế
Quận 6 đã phát huy nội lực, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước cho sự nghiêp phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương. Đặc biệt trong nhiệm kỳ IX (2005-2010), Quận 6 đã tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng “thương mại – dịch vụ – công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp”, đẩy mạnh thực hiện đề án “Các giải pháp phát huy nội lực, thu hút đầu tư, chuyển dịch kinh tế”, phát triển vững chắc các ngành công nghiệp thực phẩm, cao su – nhựa, cơ khí, chế tạo máy, giày da, dệt may… với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 17,55%. Nhiều doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, hóa mỹ phẩm, luyện kim, chế biến thực phẩm, thuộc da, dệt nhuộm, đông lạnh thủy hải sản…đã từng bước đổi mới công nghệ tiên tiến, hoạt động rất hiệu quả như Công ty cổ phần gạch Đồng Tâm, Công ty bút bi Thiên Long, Công ty hóa mỹ phẩm Mỹ Hảo, nhà máy Lưới thép Bình Tây, Công ty liên doanh Cát Tường,… Lĩnh vực dịch vụ – thương mại không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động, tổng doanh thu tăng dần hàng năm (năm 2011 đạt 60.430,322 tỷ đồng, tăng 27,22% so cùng kỳ năm 2010) với sự chủ động và nỗ lực cao của hệ thống chợ, các siêu thị, Trung tâm thương mại, Hợp tác xã vận tải, doanh nghiệp dịch vụ du lịch, hơn 82 Chi nhánh – Văn phòng giao dịch, 61 nhà hàng, khách sạn đạt tiêu chuẩn tại Quận. Kim ngạch xuất nhập khẩu cũng tăng cao (năm 2011 đạt 498,290 triệu USD, tăng 18,2% so cùng kỳ năm 2010; nhập khẩu đạt 218,5 triệu USD, tăng 20,5% so cùng kỳ năm 2010).
Lịch sử
Địa giới hành chính quận 6 trước và sau năm 1959 đều khác nhau hoàn toàn.
Thời Pháp thuộc
Năm 1874, Pháp đổi tên hạt Tham biện thành Địa hạt. Năm 1876, Pháp xoá bỏ lục tỉnh mà phân chia thành bốn khu vực mang tính quân sự, trong đó vùng quận 6 thuộc khu vực Sài Gòn.
Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh hợp nhất thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn thành một đơn vị hành chính mới gọi là Khu (một số tài liệu gọi là “Địa phương”) Sài Gòn – Chợ Lớn (Région Saigon – Cholon ou Région de Saigon – Cholon).
Ngày 22 tháng 9 năm 1941, Khu Sài Gòn – Chợ Lớn thành lập thêm quận 6. Quận 6 khi đó thuộc khu vực thành phố Sài Gòn cũ trước năm 1931, ngày nay thuộc địa giới quận 4 của Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 30 tháng 6 năm 1951, Thủ tướng chính quyền Quốc gia Việt Nam ký sắc lệnh số 311-cab/SG đổi tên Khu Sài Gòn – Chợ Lớn thành Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn. Lúc này, Quận 6 thuộc Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn.
Thời Việt Nam Cộng hòa
Theo sắc lệnh số 143/NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn. Khi đó, quận 6 lại thuộc Đô thành Sài Gòn.
Ngày 27 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 110-NV về việc phân chia sáu quận đang có thành tám quận mới: Nhứt, Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy và Tám (trừ ba quận: Nhứt, Nhì, Ba giữ nguyên, các quận còn lại đều đổi tên và thay đổi địa giới hành chính). Lúc này, quận 6 (quận Sáu) trùng với một phần địa giới của Quận 6 cũ. Năm 1959, quận Sáu có 07 phường: Bình Tây, Bình Tiên, Chợ, Phú Lâm, Bình Thới, Cầu Tre, Phú Thọ Hoà.
Năm 1969 tách đất của hai quận: Năm, Sáu để lập mới quận 11 (quận Mười Một) với 04 phường (Phú Thọ, Bình Thới, Cầu Tre, Phú Thọ Hòa). Như thế quận Sáu còn 04 phường.
Năm 1972, lập thêm phường Bình Phú tại quận Sáu (quận này có 05 phường). Cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, quận 6 (quận Sáu) gồm 05 phường: Bình Phú, Bình Tây, Bình Tiên, Chợ, Phú Lâm
Từ năm 1975 đến nay
Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn – Gia Định được thành lập. Lúc này, quận 6 (quận Sáu) thuộc thành phố Sài Gòn – Gia Định cho đến tháng 7 năm 1976.
Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh thành phố Sài Gòn – Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban Nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn – Gia Định). Theo đó, vẫn giữ nguyên quận 6 cũ có từ trước đó. Lúc này, các phường cũ đều giải thể, lập các phường mới có diện tích, dân số nhỏ hơn và mang tên số. Quận 6 có 20 phường, đánh số từ 1 đến 20.
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 1 chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 6 trở thành quận trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, theo Quyết định số 52-CP của Hội đồng Chính phủ, quận 6 giải thể ba phường: 3, 11 và 15, địa bàn ba phường giải thể nhập vào các phường kế cận; số lượng phường trực thuộc quận còn 17:
Giải thể phường 3; đất và dân cư của phường này sáp nhập vào các phường 1, 4 và 6
Giải thể phường 11; đất và dân cư của phường này sáp nhập vào các phường 5, 10 và 12
Giải thể phường 15; đất và dân cư của phường này sáp nhập vào các phường 14, 16 và 17
Ngày 14 tháng 2 năm 1987, theo Quyết định số 33-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, quận 6 giải thể 17 phường hiện hữu, thay thế bằng 14 phường mới, đánh số từ 1 đến 14. Sự phân chia đơn vị hành chính này giữ ổn định cho đến ngày nay:
Sáp nhập một phần phường 16 cũ, một phần phường 17 cũ và phường 14 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 1.
Sáp nhập một phần của phường 6 cũ với một phần của phường 1 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 2.
Sáp nhập một phần phường 16 cũ với một phần phường 19 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 3.
Đổi tên phường 17 cũ (phần còn lại) thành phường 4.
Sáp nhập một phần của phường 1 cũ với phường 4 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 5.
Sáp nhập một phần của phường 6 cũ với phường 2 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 6.
Sáp nhập một phần phường 19 cũ với phường 20 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 7.
Sáp nhập một phần phường 20 cũ với phường 18 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 8.
Sáp nhập một phần phường 10 cũ với phường 9 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 9.
Đổi tên phường 13 cũ thành phường 10.
Sáp nhập một phần phường 12 cũ với phường 5 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 11.
Sáp nhập một phần phường 10 cũ với phần còn lại của phường 12 thành 1 phường lấy tên là phường 12.
Đổi tên phường 7 cũ thành phường 13.
Đổi tên phường 18 cũ thành phường 14.
Thông tin thêm về các phường
Phường Bình Tây cũ: các phường 1, 3, 4, 7 và 8 hiện nay
Phường Chợ cũ: phường 2 hiện nay
Phường Bình Tiên cũ: các phường 5, 6 và 9 hiện nay
Phường Bình Phú cũ: các phường 10 và 11 hiện nay
Phường Phú Lâm cũ: các phường 12, 13 và 14 hiện nay
Đại Lý Gas Đường Trần Bình Quận 6 Nhận Giao Gas Trên Mọi Nẻo Đường Thuộc Quận 6
Đại Lý Gas Đường Trần Bình Quận 6 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách trên mọi nẻo đường của 14 phường: Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7, Phường 8, Phường 9, Phường 10, Phường 11, Phường 12, Phường 13, Phường 14. Khách hàng thuộc khu vực Quận 6 có nhu cầu sử dụng gas vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
An Dương Vương | Kinh Dương Vương |
Tăng Nguy Cơ Cháy Nổ ⇒ Vì Không Biết Những Việc Này
Xử Lý Đám Cháy Khí Gas – Nguồn Yuotube NTQ
Xem Thêm Các Tình Huống Khác Tại Đây
Đại Lý Gas Đường Trần Bình Quận 6 xin thông tin đến quý khách những nguyên nhân có thể dẫn đến cháy, nổ khi sử dụng gas như:
1. Không khóa bình gas ngay sau khi sử dụng xong ⇒ Luôn khóa van bình gas ngay sau khi sử dụng xong, để đảm bảo gas không bị rò rỉ.
2. Sử dụng van điều áp quá cũ (đã hết hạn sử dụng) ⇒ Thay thế định kỳ tùy theo hạn sử dụng từng loại van mà chúng ta đang sử dụng.
3. Không thay dây dẫn gas khi đã cũ, đã bị gãy, nức ⇒ Nên thay định kỳ 1 năm 1 lần. Vì dây dẫn bằng cao su nên sẽ bị chay, nức khi sử dụng lâu ngày.
4. Sử dụng Bếp gas quá cũ, không đảm bảo an toàn ⇒ Thay thế bếp mới khi thấy bếp hoạt động không an toàn nữa.
Đại Lý Gas Đường Trần Bình Quận 6
Tổng Đài Tiếp Nhận Giao Gas (028) 6683 6644
Giao Gas Tận Nơi 24 Quận Huyện TP. HCM
Có Thể Bạn Quan Tâm
>>>Bảo Trì – Kiểm Tra Rò Rỉ Gas Tại Nhà >>>