Đại Lý Gas Đường Võ Thị Sáu Quận 3 chuyên giao lẻ các loại gas dân dụng 12kg tại nhà cho hộ gia đình, chung cư, căn hộ, chung cư cao cấp và giao sỉ gas dân dụng 12kg – gas công nghiệp 45kg cho quán ăn, nhà hàng, khách sạn, quán nhậu, văn phòng công ty, căn tin, bếp ăn công nghiệp… tại Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh. Khách hàng có nhu cầu đổi gas vui lòng gọi (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Đường Võ Thị Sáu Quận 3 với dịch vụ giao gas chuyên nghiệp:
Đại Lý Gas Đường Võ Thị Sáu Quận 3 giao gas nhanh và an toàn
Luôn giao gas Bình Minh chính hãng, có thương hiệu đảm bảo chất lượng
Bình gas chính hãng
Luôn cân bình gas tại nhà khách hàng, đảm bảo đủ ký
Cân bình gas tại nhà
Luôn kiểm tra rò rỉ gas mỗi khi giao gas để đảm bảo an toàn cho khách hàng
Kiểm tra rò rỉ bình gas
Đại Lý Gas Đường Võ Thị Sáu Quận 3 luôn có hậu mãi chu đáo
- Có đội ngũ bảo trì định kỳ bếp gas, van gas, dây dẫn gas hoàn Toàn miễn phí.
- Sửa bếp gas miễn phí cho khách hàng trong suốt quá trình sử dụng.
- Được đội ngũ của Đại Lý Gas Đường Võ Thị Sáu Quận 3 giao tận nhà.
- Hệ Thống giao gas 24 quận huyện Tp.Hồ Chí Minh.
- Khách hàng có nhu cầu ký hợp đồng, sử dụng số lượng nhiều, vui lòng liên hệ tổng đài để có chính sách giá tốt nhất.
Các Sản Phẩm Đại Lý Gas Đường Võ Thị Sáu Quận 3 Cung Cấp:
Để biết thông tin chi tiết về Đại Lý Gas Đường Võ Thị Sáu Quận 3, giá bán các loại gas Bình Minh dân dụng, gas Bình Minh công nghiệp, chính sách giao gas, chính sách hậu mãi. Quý khách vui lòng liên hệ qua số (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Đường Võ Thị Sáu Quận 3 Nhận Giao Gas Tận Nơi Cho Quý Khách
Đại Lý Gas Đường Võ Thị Sáu Quận 3 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách gồm 14 phường: Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7, Phường 8, Phường 9, Phường 10, Phường 11, Phường 12, Phường 13, Phường 14. Khách hàng thuộc khu vực Quận 3 có nhu cầu sử dụng gas vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Tại Phường 1
|
Đại Lý Gas Tại Phường 6 | Đại Lý Gas Tại Phường 11 |
Võ Thị Sáu là một nữ du kích trong kháng chiến chống Pháp
Võ Thị Sáu (1933-1952) là một nữ du kích trong kháng chiến chống Pháp ở Việt Nam, người nhiều lần thực hiện các cuộc mưu sát nhắm vào các sĩ quan Pháp và những người Việt cộng tác đắc lực với chính quyền thực dân Pháp tại miền Nam Việt Nam.
Do bị chỉ điểm, cô bị quân Pháp bắt được và bị tòa án binh Quân đội Pháp xử tử hình khi chưa đến 18 tuổi.
Chính quyền Việt Nam xem cô như một biểu tượng liệt nữ anh hùng tiêu biểu trong cuộc Kháng chiến chống Pháp và đã truy tặng cho cô danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1993.
Tiểu sử Võ Thị Sáu
Võ Thị Sáu sinh năm 1933, là con ông Võ Văn Hợi và bà Nguyễn Thị Đậu. Về nguyên quán, trên bia mộ chỉ ghi tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Nhiều tài liệu ghi nguyên quán của cô tại xã Phước Thọ (thuộc tổng Phước Hưng Hạ), tỉnh Bà Rịa, nay thuộc xã Phước Long Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Một số tài liệu khác ghi nguyên quán của cô tại xã Long Mỹ (thuộc tổng Phước Hưng Thượng), tỉnh Bà Rịa, nay thuộc xã Long Mỹ, cũng thuộc huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Sinh ra trong một gia đình nghèo, thân phụ làm nghề đánh xe ngựa chở khách thuê đi Long Điền, Phước Hải, thân mẫu buôn bán bún bì chả tại chợ Đất Đỏ, từ nhỏ, cô phải phụ giúp cha mẹ để sinh kế. Năm cô lên 4 tuổi, gia đình cô đã thuê một căn nhà thuộc dãy phố chợ do làng xây dựng để cho thuê mướn. Căn nhà này nay thuộc thị trấn Đất Đỏ, được chính quyền Việt Nam cho phục dựng để làm nhà lưu niệm về cô.
Quá trình hoạt động Cách mạng
Tham gia kháng chiến
Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, người Việt Nam đã thành lập chính phủ riêng và tuyên bố độc lập, thống nhất, thoát ly khỏi quyền thống trị của thực dân Pháp đã ngót 80 năm; và sau đó tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp để chống lại sự tái lập quyền thống trị của thực dân Pháp như trước kia. Các anh trai của cô, sau khi quân Pháp tái chiếm vùng Đất Đỏ, đã thoát ly gia đình, hoạt động kháng chiến cho phong trào Việt Minh. Cô bỏ dở việc học, ở nhà giúp mẹ cha kiếm sống và bí mật tiếp tế cho các anh, vốn công tác trong Chi đội Giải phóng quân của tỉnh Bà Rịa.
Năm 1946, cô theo anh trai là Võ Văn Me vào khu kháng chiến, và trở thành liên lạc viên của Đội Công an xung phong Đất Đỏ. Năm 1947, cô chính thức trở thành đội viên Công an xung phong Đất Đỏ khi mới 14 tuổi. Từ đó, cô tham gia nhiều trận tập kích bằng lựu đạn, ám sát các sĩ quan Pháp và Việt gian cộng tác với quân Pháp; đặc biệt là trận tập kích bằng lựu đạn tại lễ kỷ niệm Quốc khánh Pháp ngày 14 tháng 7 năm 1949 tại Đất Đỏ, gây được tiếng vang trong vùng.
Theo trang thông tin của huyện Đất Đỏ, thì vào tháng 12 năm 1949, trong một chuyến công tác tại Đất Đỏ, cô bị quân Pháp bắt được. Một số tài liệu khác ghi cô bị bắt vào tháng 2 năm 1950, sau khi cô và đồng đội dùng lựu đạn tập kích giết chết Cả Suốt và Cả Đay, là hương chức người Việt cộng tác đắc lực với quân Pháp, ở ngay phiên chợ Tết Canh Dần tại chợ Đất Đỏ.
Bị bắt và tử hình
Sau khi bị bắt, cô lần lượt bị đưa đi thẩm vấn và giam giữ tại các nhà tù Đất Đỏ, khám đường Bà Rịa và khám Chí Hòa. Tháng 4 năm 1950, tòa án binh của quân đội Pháp đã đưa cô ra xét xử với tội danh làm chết một sĩ quan Pháp và 23 người Việt cộng tác với Pháp.
Ngay tại phiên tòa đại hình, Võ Thị Sáu đã thể hiện sự dũng cảm bằng những tuyên bố mạnh mẽ tại phiên tòa. Cô tuyên bố: “Yêu nước chống bọn thực dân xâm lược không phải là tội”. Và khi quan tòa rung chuông ngắt lời chị, tuyên án: “Tử hình, tịch thu toàn bộ tài sản”, chị thét lớn: “Ta còn mấy thùng rác ở khám Chí Hòa, tụi bây vô mà tịch thu!”. Tiếp đó là tiếng hô: “Đả đảo thực dân Pháp! Kháng chiến nhất định thắng lợi!”
Vào thời điểm xử án, cô chưa tròn 18 tuổi, vì vậy các luật sư bảo vệ cô căn cứ vào điểm này để tranh biện nhằm đưa cô thoát khỏi án tử hình. Mặt dù vậy, tòa án binh Pháp vẫn tuyên án tử hình cô. Bản án này đã gây chấn động dư luận, gây ra sự phản đối mạnh mẽ cả tại Việt Nam và ngay tại nước Pháp. Chính vì vậy, chính quyền quân sự Pháp không thể công khai thi hành bản án. Cô tiếp tục bị giam cầm tại khám Chí Hòa cho đến tận giữa tháng 1 năm 1952 thì bị chính quyền quân sự Pháp chuyển ra Côn Đảo để bí mật thi hành án tử hình khi cô đã đủ 18 tuổi.
Theo các lời chứng của các cựu tù Côn Đảo, cô được đưa ra đến Côn Đảo vào chiều ngày 21 tháng 1 năm 1952, và bị giam trong Sở Cò (đối diện với văn phòng giám đốc đảo).
Rạng sáng ngày 23 tháng 1 năm 1952, lúc khoảng 5 giờ, cô bị đưa đến văn phòng giám thị trưởng đặt trước sân Banh I để làm lễ rửa tội. Đến 7 giờ sáng, cô bị đưa đến sân Banh III phụ và bị xử bắn tại đây. Thi hài cô được đưa ra Hàng Dương và được chôn tại huyệt đào sẵn. Trong “Sổ giám sát tử vong 1947 – 1954” còn lưu tại Côn Đảo, có dòng chữ ghi bằng tiếng Pháp: “Le 23 Janvier 1952: 195 G.267 Võ Thị Sáu dite CAM mort 23/1/1952 7h P.Condor Par balles…” (Tù nhân số G 267 Võ Thị Sáu bị xử bắn vào ngày 23/1/1952).[1]
Những giờ phút cuối
Khi bị đưa ra Côn Đảo để chuẩn bị xử bắn, trước hôm bị hành hình, cô liên tục hát cho bạn tù nghe những bài ca cách mạng như Lên đàng, Tiến quân ca, Cùng nhau đi hồng binh… Khi biết cô chuẩn bị đưa ra pháp trường, các bạn tù đồng thanh hô vang: “Phản đối xử bắn Võ Thị Sáu. Phản đối! Phản đối! Đả đảo thực dân Pháp”.
Khi cô bị giải ra nơi hành hình, các bạn tù đứng dậy cùng hát bài Chiến sĩ ca để bày tỏ lòng cảm phục, tiếc thương và tiễn đưa người đồng đội ra pháp trường. Khi linh mục làm lễ rửa tội, cô từ chối và trả lời: “Tôi không có tội. Chỉ có kẻ sắp hành hình tôi đây mới là có tội”. Khi vị linh mục nói: “Trước khi chết, con có điều gì ân hận không?”, cô đã đáp lời: “Tôi chỉ ân hận là chưa tiêu diệt hết bọn thực dân cướp nước và lũ tay sai bán nước”. Khi đến pháp trường, chị nói: “Không cần bịt mắt tôi. Hãy để cho đôi mắt tôi được nhìn đất nước thân yêu đến giây phút cuối cùng và tôi có đủ can đảm để nhìn thẳng vào họng súng của các người!”. Nói xong, Võ Thị Sáu hát bài Tiến quân ca. Khi lính xử bắn lên đạn, cô ngừng hát và hô vang những lời cuối cùng: “Đả đảo bọn thực dân Pháp. Việt Nam độc lập muôn năm. Hồ Chủ tịch muôn năm!” Một chuyện khác kể, khi nhóm đao phủ bảo quỳ xuống, cô đã quát lại: “Tao chỉ biết đứng, không biết quỳ!”.
Theo đại tá Lê Văn Thiện, một cựu tù Côn Đảo, trong quyển sách “Tình đất đỏ”, dẫn lời kể của cựu tù Côn Đảo lâu năm là ông Tám Vàng, quê Trà Vinh, người đã chứng kiến buổi hành hình và tự tay chôn cất Võ Thị Sáu thì khi lính Pháp trói chị Sáu vào gốc bàng, hướng về nghĩa địa Hàng Dương. Quân Pháp lấy khăn bịt mắt nhưng chị Sáu phản đối không cho bịt, rồi chị nhìn thẳng vào bọn lính sắp bắn và hát bài “Chiến sĩ Việt Nam”, “Lên Đàng”
Sau khi quân Pháp bắn Võ Thị Sáu, ông Tám Vàng cởi dây trói cho Võ Thị Sáu, mắt cô vẫn mở, cơ thể còn ấm nóng. Chính tay ông Tám Vàng đã vuốt mắt cho cô. Và cũng vì nể phục Võ Thị Sáu, nên thay vì lấp đất chôn xác như với những tù nhân khác, ông Tám Vàng đã bí mật tìm 4 tấm ván làm hòm dã chiến để chôn cất.
Chôn cất và thờ cúng
Ngay tối 23 tháng 1, kíp tù nhân làm thợ hồ ở khám 2, banh I đã tìm cách đúc một tấm bia bằng xi-măng đề rõ họ tên, quê quán, ngày chết đặt ở nơi chôn cất cô. Sáng hôm sau, khi hay tin, chúa ngục Côn Đảo là Jarty đích thân dẫn lính đến đập nát tấm bia, san bằng ngôi mộ. Sáng hôm sau, ngôi mộ được đắp cao hơn và một tấm bia bằng xi-măng khác lại được dựng lên. Chúa ngục Jarty ra lệnh cho giám thị trưởng Passi chỉ huy 20 lính lôi từng người tù ra đánh bằng roi mây và giam những người bị tình nghi vào xà lim. Tuy nhiên, các tù nhân khổ sai vẫn lén giấu từng nhúm xi măng để dựng lại bia, đắp lại ngôi mộ. Cứ mỗi lần bị đập bia, thì sau đó bia mộ mới lại được dựng lên. Giữa các tù nhân và những người Việt đang làm cho người Pháp tại Côn Đảo bắt đầu lan truyền những huyền thoại về Võ Thị Sáu, một người con gái chết trẻ, vốn được cho là sẽ hiển linh trong văn hóa tâm linh Á Đông. Những lời đồn đại nhanh chóng lan truyền cho rằng “Cô Sáu rất linh thiêng, không ai có thể đập phá được mộ của cô”, và những ai trực tiếp chỉ huy phá mộ thì vài hôm sau đã chết “bất đắc kỳ tử”, hoặc khùng khùng điên điên. Cũng từ đây, người trên đảo khi nhắc tới điều gì đều không thề: “Có trời đất quỷ thần”, mà thề: “Có cô Sáu chứng giám”.
Những lời đồn đại về sự linh thiêng của Võ Thị Sáu tiếp tục được lưu truyền sau khi chính phủ Việt Nam Cộng hòa tiếp quản và vẫn sử dụng Côn Đảo như một trại tù chính nhằm cách ly những tù nhân nguy hiểm nhất mà số đông là tù nhân Việt Minh và quân Giải phóng. Năm 1960, một viên chức tên Tăng Tư ra Côn Đảo nhận chức Phó tỉnh trưởng tỉnh Côn Đảo, vợ ông này đang mắc bệnh nan y. Nghe chuyện về Võ Thị Sáu, ông này âm thầm lập bàn thờ Sáu trong nhà, cầu mong phù hộ cho vợ khỏi bệnh. Tăng Tư là quan chức của Việt Nam Cộng Hòa, việc thờ Võ Thị Sáu nếu bị phát giác thì sẽ bị kết tội là thờ “liệt sĩ Cộng sản”, nhưng ông này vẫn bất chấp nguy hiểm do niềm tin vào sự linh thiêng của Võ Thị Sáu. Năm 1964, Tăng Tư lên chức tỉnh trưởng, bà vợ khỏi bệnh. Vợ chồng Tăng Tư liền làm lễ tạ và gieo quẻ xin phép được trùng tu ngôi mộ của Võ Thị Sáu. Rồi vợ Tăng Tư về ngay Chợ Lớn đặt tấm bia có khắc rõ là: “Liệt nữ Võ Thị Sáu. sinh năm 1933 tại Bà Rịa, mất ngày 23/1/1952” và tổ chức buổi lễ long trọng đặt bia trên mộ chị.
Về sau còn có thêm 1 tấm bia nữa do Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dựng nên để ghi công chị. Tổng cộng, ngôi mộ Võ Thị Sáu có tới 3 tấm bia, mỗi tấm đều gắn với một sự ghi nhận từ tâm linh cho tới lịch sử, không chỉ từ những đồng đội của chị mà còn từ chính đối phương.
Đại Lý Gas Đường Võ Thị Sáu Quận 3 Xin Giới Thiệu Khái Quát Đến Khách Hàng Về Quận 3
Quận 3 là một quận nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh, là một trong các quận trung tâm và cũng thuộc khu vực Sài Gòn, Bến Nghé trước đây. Quận được Pháp thành lập từ năm 1920, đến 1956 thì trở thành một phần của Đô thành Sài Gòn thuộc Việt Nam Cộng hòa.
Vị trí địa lý
Phía Bắc giáp quận Phú Nhuận.
Phía Đông Bắc giáp Quận 1, ranh giới là đường Hai Bà Trưng.
Đông Nam giáp Quận 1, ranh giới là đường Nguyễn Thị Minh Khai.
Tây Nam giáp Quận 10 qua đường Cách mạng tháng Tám.
Nam giáp đại lộ Lý Thái Tổ ngăn cách với Quận 10.
Hành chính
Trụ sở Ủy ban nhân dân Quận 3 (cũ), nay là Nhà thiếu nhi Quận 3
Quận gồm 14 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14.
Trong đó, phường 6 là trung tâm của quận.
Văn hóa – Giáo dục
Quận 3 là nơi tập trung các biệt thự thời Pháp thuộc và là quận có mật độ cây xanh cao. Ga Sài Gòn, chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Xá Lợi cũng nằm tại Quận 3.
Quận 3 cũng là nơi có cơ sở của một số đại học lớn: Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh…
Lịch sử
Thời Pháp thuộc
Sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, theo nghị định của Thống đốc Nam Kỳ, ngày 12 tháng 4 năm 1861, chính quyền Pháp thành lập thành phố Sài Gòn, trên địa bàn một số thôn của hai tổng: Bình Trị Thượng và Bình Trị Trung thuộc huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Địa giới hành chính lúc đầu của thành phố Sài Gòn chỉ gồm một phần của hai quận: Quận 1 và Quận 3 hiện nay. Tháng 1 năm 1877, Tổng thống Pháp công nhận thành phố Sài Gòn là thành phố loại I, đứng đầu là viên Đốc lý do Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm.
Đến tháng 9 năm 1889, thành phố Sài Gòn được chia thành hai quận cảnh sát (arrondissement policier): Quận 1 và Quận 2, đứng đầu mỗi quận cảnh sát là vị Quận trưởng cảnh sát (Commissaire). Tháng 12 năm 1920, lập thêm Quận 3.
Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh hợp nhất thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn thành một đơn vị hành chính mới gọi là Khu (một số tài liệu gọi là “Địa phương”) Sài Gòn – Chợ Lớn (Région Saigon – Cholon ou Région de Saigon – Cholon). Quận 3 thuộc Khu Sài Gòn – Chợ Lớn.
Ngày 30 tháng 6 năm 1951, Thủ tướng chính quyền Quốc gia Việt Nam ký sắc lệnh số 311-cab/SG đổi tên Khu Sài Gòn – Chợ Lớn thành Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn. Lúc này, Quận 3 thuộc Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn.
Thời Việt Nam Cộng hòa
Theo sắc lệnh số 143/NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn. Khi đó, quận 3 lại thuộc Đô thành Sài Gòn.
Ngày 27 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 110-NV về việc phân chia sáu quận đang có thành tám quận mới: Nhứt, Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy và Tám (trừ ba quận: Nhứt, Nhì, Ba giữ nguyên, các quận còn lại đều đổi tên và thay đổi địa giới hành chính). Lúc này, quận Ba trùng với địa giới quận 3 cũ, có 5 phường: Chí Hoà, Bàn Cờ, Đài Chiến Sĩ, Trương Minh Giảng, Yên Đổ.
Năm 1962, quận Ba giải thể phường Đài Chiến Sĩ; lập mới sáu phường: Cộng Hòa, Cư Xá Đô Thành, Hiền Vương, Lê Văn Duyệt, Phan Đình Phùng và Phan Thanh Giản. Như thế lúc này quận có 10 phường.
Năm 1969 tách đất của 2 quận: Ba, Năm để lập mới quận Mười với 4 phường (Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, Chí Hòa). Như thế quận Ba còn 8 phường.
Năm 1974 lập thêm phường Trần Quang Diệu tại quận Ba (quận này có 9 phường). Cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, quận 3 (quận Ba) gồm 09 phường: Cộng Hòa, Cư Xá Đô Thành, Bàn Cờ, Hiền Vương, Lê Văn Duyệt, Phan Đình Phùng, Trần Quang Diệu, Trương Minh Giảng, Yên Đổ.
Từ năm 1975 đến nay
Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn – Gia Định được thành lập. Lúc này, Quận 3 (Quận Ba) thuộc Thành phố Sài Gòn – Gia Định cho đến tháng 7 năm 1976.
Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh Thành phố Sài Gòn – Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn – Gia Định). Theo đó, vẫn giữ nguyên Quận 3 cũ có từ trước đó. Lúc này, các phường cũ đều giải thể, lập các phường mới có diện tích, dân số nhỏ hơn và mang tên số. Quận 3 có 25 phường, đánh số từ 1 đến 25.
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 1 chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 3 trở thành quận trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 12 tháng 9 năm 1981, giải thể ba phường: 2, 4 và 6, địa bàn các phường giải thể nhập vào các phường kế cận. Số phường trực thuộc quận 3 còn 22.
Ngày 26 tháng 8 năm 1982, theo Quyết định số 147-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, quận 3 giải thể Phường 16 và Phường 18, địa bàn các phường giải thể nhập vào các phường kế cận. Số phường trực thuộc quận 3 còn 20:
Ngày 17 tháng 9 năm 1988, ngoài Phường 1 và Phường 3 không thay đổi, quận 3 giải thể 18 phường còn lại, thay thế bằng 12 phường mang tên số mới: 2, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13 vá 14. Tổng cộng quận 3 còn 14 phường, sự phân chia đơn vị hành chính này giữ ổn định cho đến nay.
Giao thông
Quận 3 gồm những con đường đặc trưng như: Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Lý Chính Thắng, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thị Minh Khai, Bà Huyện Thanh Quan, Lê Văn Sỹ, Hai Bà Trưng, Điện Biên Phủ… Đó là những con đường lớn ở Quận 3.
Đặc biệt, đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa ở Quận 3 còn được xem là con đường chính vì nó nối liền từ sân bay Tân Sơn Nhất tới Dinh Thống Nhất – một Dinh thự lớn nhất và được đánh giá là một nét đặc trưng của Thành phố Hồ Chí Minh.
Quận 3, Quận 1 và Quận 5 là ba quận còn mang những nét đặc trưng nhất của trung tâm Sài Gòn từ xưa.
KINH TẾ
+ Cơ sở hạ tầng:
Đường bê tông nhựa có tên: 47 đường với tổng chiều dài 46.336m và diện tích 696.152m2. Trong đó, có đường Cách Mạng Tháng Tám, đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa là đường trục bắc nam của Thành phố và đường Võ Thị Sáu, đường Điện Biên Phủ là đường trục đông tây của Thành phố.
Đường hẻm: 683 đường với tổng chiều dài 77.775m và diện tích 303.277m2.
Điện, nước, viễn thông đảm bảo đáp ứng 100% nhu cầu của dân cư, cơ quan và doanh nghiệp.
Nhà ở: có 37.057 căn nhà, căn hộ với 2,5 triệu m2 bình quân 11m2/người, trong đó nhà kiên cố chiếm 62%, bán kiên cố chiếm 38%.
+ Phát triển kinh tế:
Từ năm 1975 trở về trước, Quận 3 là địa bàn dân cư, hoạt động kinh tế không đáng kể.
Qua 30 năm phát triển, hiên nay Quận 3 là một quận có các hoạt động kinh tế thuộc loại khá của Thành phố theo cơ cấu: Thương mại – dịch vụ và Công nghiệp – tiểu công nghiệp.
Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 1.146 tỷ đồng (chỉ tính các doanh nghiệp ngòai quốc; giá cố định 94), doanh thu thương mại-dịch vụ (chỉ tính các doanh nghiệp ngòai quốc doanh) đạt 23.100 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2005 đạt 711 tỷ đồng (cao hơn 32 tỉnh).
Số cơ sở sản xuất kinh doanh:
Tính đến 31/12/2005 trên địa bàn quận có 15.799 cơ sơ’ với trên 100 ngàn lao động. Riêng số lượng doanh nghiệp là 2137, đứng hàng thứ 5 sau Quận 1 và Quận Tân Bình, Quận Bình Thạnh, Quận Gò Vấp. Cụ thể:
– Doanh nghiệp công nghiệp : 245
– Doanh nghiệp xây dựng : 186
– Doanh nghiệp thương mại – dịch vụ : 1.706
– Số hộ tiểu công nghiệp : 924
– Số hộ thương mại – dịch vụ : 12.393
– Số chi nhánh sản xuất kinh doanh : 345
Về trung tâm thương mại có 4 chợ cấp Quận quản lý: Bàn Cờ, Vườn Chuối, Nguyễn Văn Trỗi, Bùi Phát; 2 siêu thị: Coopmart Nguyễn Đình Chiểu, Citymart Minh Châu; 3 trung tâm điện máy: Lộc Lê, Ideal, VietnamShop.
Đại Lý Gas Đường Võ Thị Sáu Quận 3 Nhận Giao Gas Trên Mọi Nẻo Đường Thuộc Quận 3
Đại Lý Gas Đường Võ Thị Sáu Quận 3 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách trên mọi nẻo đường của 14 phường: Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7, Phường 8, Phường 9, Phường 10, Phường 11, Phường 12, Phường 13, Phường 14. Khách hàng thuộc khu vực Quận 3 có nhu cầu sử dụng gas vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
Bà Huyện Thanh Quan | Lê Quý Đôn | Phạm Đình Toái |
Tăng Nguy Cơ Cháy Nổ ⇒ Vì Không Biết Những Việc Này
Xử Lý Đám Cháy Khí Gas – Nguồn Yuotube NTQ
Xem Thêm Các Tình Huống Khác Tại Đây
Đại Lý Gas Đường Võ Thị Sáu Quận 3 xin thông tin đến quý khách những nguyên nhân có thể dẫn đến cháy, nổ khi sử dụng gas như:
1. Không khóa bình gas ngay sau khi sử dụng xong ⇒ Luôn khóa van bình gas ngay sau khi sử dụng xong, để đảm bảo gas không bị rò rỉ.
2. Sử dụng van điều áp quá cũ (đã hết hạn sử dụng) ⇒ Thay thế định kỳ tùy theo hạn sử dụng từng loại van mà chúng ta đang sử dụng.
3. Không thay dây dẫn gas khi đã cũ, đã bị gãy, nức ⇒ Nên thay định kỳ 1 năm 1 lần. Vì dây dẫn bằng cao su nên sẽ bị chay, nức khi sử dụng lâu ngày.
4. Sử dụng Bếp gas quá cũ, không đảm bảo an toàn ⇒ Thay thế bếp mới khi thấy bếp hoạt động không an toàn nữa.
Đại Lý Gas Đường Võ Thị Sáu Quận 3
Tổng Đài Tiếp Nhận Giao Gas (028) 6683 6644
Giao Gas Tận Nơi 24 Quận Huyện TP. HCM
Có Thể Bạn Quan Tâm
>>>Bảo Trì – Kiểm Tra Rò Rỉ Gas Tại Nhà >>>