Đại Lý Gas Gia Đình Đường Nguyễn Văn Kỉnh, Quận 2 chuyên giao lẻ gas Gia Đình dân dụng 12kg tại nhà cho hộ gia đình, chung cư, căn hộ, chung cư cao cấp và giao sỉ gas Gia Đình dân dụng – gas Gia Đình công nghiệp 45kg cho quán ăn, nhà hàng, khách sạn, quán nhậu, văn phòng công ty, căn tin, bếp ăn công nghiệp… tại Quận 2. Khách hàng có nhu cầu đổi gas Gia Đình vui lòng gọi (028) 6683 6644
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Nguyễn Văn Kỉnh, Quận 2 Với Dịch Vụ Chuyên Nghiệp
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Nguyễn Văn Kỉnh, Quận 2 giao gas nhanh và an toàn
- Luôn chủ động giao gas nhanh nhất đến nhà khách hàng.
- Luôn giao gas Gia Đình chính hãng, có thương hiệu đảm bảo chất lượng.
- Luôn cân bình gas tại nhà khách hàng, đảm bảo đủ ký.
- Luôn kiểm tra rò rỉ gas mỗi khi giao gas để đảm bảo an toàn cho khách hàng.
Giao Gas Gia Đình Chính Hãng |
Gas Gia Đình Luôn Cân Gas Tại Nhà |
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Nguyễn Văn Kỉnh, Quận 2 luôn có hậu mãi chu đáo
- Có đội ngũ bảo trì định kỳ bếp gas, van gas, dây dẫn gas hoàn Toàn miễn phí.
- Sửa bếp gas miễn phí cho khách hàng trong suốt quá trình sử dụng.
- Được đội ngũ của đại lý gas Bình Minh giao tận nhà.
- Hệ Thống giao gas 24 quận huyện Tp.Hồ Chí Minh.
- Khách hàng có nhu cầu ký hợp đồng, sử dụng số lượng nhiều, vui lòng liên hệ tổng đài (028) 6683 6644 để có chính sách giá tốt nhất.
Sản phẩm của Đại Lý Gas Gia Đình Đường Nguyễn Văn Kỉnh, Quận 2 bán nhiều nhất:
Gas Gia Đình Vàng |
Gas Gia Đình Xám |
Gas Bình Minh Vàng |
GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY GAS GIA ĐÌNH
- Tên đầy đủ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MTV KHÍ ĐỐT GIA ĐÌNH
- Địa chỉ Khu phố 4, Lã Xuân Oai, phường Tăng Nhơn Phú A, Quận 9, TP. HCM
- Điện thoại, Fax 8.54136338 – Fax: 8.5413634
- Website, Email Website: www.anphapetrol.com – Email:info.gds@anphapetrol.com
Giới thiệu sơ lược về doanh nghiệp
Công ty Cổ phần Tập Đoàn Dầu khí An Pha là một trong những công ty hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh khí hóa lỏng ở Việt Nam.
Là một trong 3 công ty chiếm lĩnh thị phần gas dân dụng lớn nhất cả nước (Sài Gòn Petro, An pha Petrol và Petrolimex).
Là một trong 4 công ty kinh doanh gas hàng đầu Việt Nam có hệ thống kho chứa đầu mối ở cả hai miền Nam Bắc (Petrolimex Gas, Petronas – Thăng Long Gas, Petro Vietnam Gas và An pha Petrol).
Là công ty gas duy nhất có hệ thống hoàn chỉnh từ khâu nhập khẩu, vận tải, tồn trữ đến phân phối bán buôn, bán lẻ trên địa bàn toàn quốc với qui mô lớn.
Công ty hiện sở hữu 2 thương hiệu gas có uy tín trên thị trường Nam Bắc:
- Thương hiệu An pha Petrol – là thương hiệu của Công ty mẹ và cũng là thương hiệu của cả Tập đoàn, chiếm 7% thị phần Miền Nam.
- Ở miền Bắc, thương hiệu Gia dinh Gas thuộc Công ty TNHH Khí đốt Gia Định (Hà Nội) chiếm khoảng 10% thị phần, nằm trong Top 5 công ty có thị phần lớn nhất miền Bắc.
- Ở miền Nam, thương hiệu Gia dinh Gas thuộc Công ty TNHH MTV Khí Đốt Gia Đình (Quận 9, TPHCM) chiếm 5% thị phần, nằm trong Top 10 công ty có thị phần lớn nhất miền Nam.
An pha Petrol nhanh chóng có được vị thế đó một phần rất lớn là do thiết lập được mối quan hệ hợp tác bền vững và tin cậy với những tên tuổi lớn trong ngành từ Bắc đến Nam như: Petro Vietnam, Petrolimex, Sài Gòn Petro, Thăng Long Gas, VTGas …
Thời gian gần đây với sự phát triển mạnh mẽ và tiềm năng to lớn, An pha Petrol đã thu hút được sự quan tâm của các tổ chức quốc tế và trong nước.
Đó là sự đầu tư của các tập đoàn nước ngoài và ngân hàng quốc doanh hàng đầu trong nước:
- Quỹ phát triển Việt Nhật (Japan-Vietnam Growth Fund L.P.): do Tập đoàn Sojitz, Quỹ đầu tư Châu Á và một số ngân hàng Nhật Bản sáng lập vào tháng 9/2006. để đầu tư vào Việt Nam.
- Tập đoàn Sojitz: là một tập đoàn lớn của Nhật, nổi tiếng trên lĩnh vực cung ứng và xuất nhập khẩu LPG trên toàn thế giới.
- Công ty chứng khoán SK (SK Securities) thuộc tập đoàn SK của Hàn Quốc.
Để biết thông tin chi tiết về gas Gia Đình, giá bán các loại gas Gia Đình dân dụng 12kg, gas Gia Đình công nghiệp 45kg, chính sách giao gas, chính sách hậu mãi. Quý khách vui lòng liên hệ qua số (028) 6683 6644
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GAS GIA ĐÌNH
Tiền thân của Tập đoàn Dầu khí An pha Petrol là Công ty TNHH DV – TM Gia Đình (nay là Công ty TNHH MTV Khí Đốt Gia Đình).
Tháng 4/1999, Công ty TNHH DV – TM Gia Đình được thành lập với chức năng chuyên kinh doanh gas dân dụng và gas công nghiệp.
Tháng 4/2004 thị trường có nhiều biến động, do nhu cầu phát triển, Công ty cổ phần Dầu khí An Pha S.G (nay là Công ty Cổ phần Tập Đoàn Dầu khí An Pha) được thành lập, với mục đích đầu tư và quản lý hệ thống cơ sở hạ tầng đầu vào cũng như hệ thống kho dự trữ đầu mối và vận tải LPG cho đối tác chiến lược và các công ty kinh doanh Gas dân dụng thương hiệu Gia dinh Gas.
Tháng 4/2005 thành lập Công ty Cổ phần Dầu khí An Pha tại Hà Nội nhằm quản lý khai thác kho đầu mối các tỉnh phía Bắc.
Tháng 03/2007 mua lại phần vốn góp và sở hữu 99% Công ty TNHH DV – TM Gia Đình và thương hiệu Gia dinh Gas( nay là Công ty TNHH MTV Khí Đốt Gia Đình).
Tháng 3/2007 trở thành Công ty đại chúng.
Tháng 4/2007 mua lại phần góp vốn và sở hữu 51% Công ty MTV Dầu Khí An Pha Tây Ninh (tức Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại L.P.G Minh Thông) và thương hiệu JP GAS
Đồng thời thành lập Công ty cổ phần Đầu tư Thủy điện An Pha ở Sơn La để thực hiện các dự án thủy điện trọng điểm ở Sơn La, Cao Bằng với tỷ lệ sở hữu 55%.
Tháng 5/2007 mua lại phần góp vốn và sở hữu 60% Công ty TNHH Khí Đốt Gia Định (Hà Nội)
Tháng 6/2007 thành lập Công ty Cổ Phần Dầu khí An Pha Tây Nguyên (Đăklăk) để mua lại DNTN Hoàng Minh và thương hiệu Dakgas , tỷ lệ sở hữu là 55%.
Tháng 9/2007 ký kết hợp đồng đầu tư và hợp tác chiến lược với tập đoàn dầu khí quốc tế đến từ Nhật Bản – Sojitz Petroleum Co. Pte. Ltd và Quỹ đầu tư phát triển Việt Nhật thông qua hợp đồng bán 5,5% cổ phần.
Tháng 10/2007 ký kết hợp đồng đầu tư bán 10% cổ phần cho Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam. Trong thời gian này Công ty lại tiếp tục ký kết hợp đồng đầu tư chiến lược bán 8% cổ phần cho Công ty chứng khoán SK (SK Securities).
Để tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh, Công ty mẹ đã quyết định bán lại một số công ty con, tập trung vào các mũi hoạt động chủ lực nhằm thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ những lợi thế chính của Tập đoàn :
Tháng 6/2009 : Bán lại Công ty cổ phần Đầu tư Thủy điện An Pha.
Tháng 7/2011 : Bán lại Công ty MTV Dầu Khí An Pha Tây Ninh.
Tháng 7/2011 : Bán lại Công ty Cổ Phần Dầu khí An Pha Tây Nguyên.
Kể từ khi thành lập đến nay, Anpha Petrol luôn chú trọng đầu tư phát triển, đưa Tập đoàn ngày càng lớn mạnh và hiện nay là Tập đoàn Dầu khí tư nhân lớn mạnh nhất ở Việt Nam.
Anpha Petrol cũng tích cực tham gia nhiều các hoạt động xã hội, là Nhà tài trợ cho các Giải bóng đá trong nước. Được nhận nhiều Giấy khen, Bằng khen của Chính quyền và các Bộ, ngành.
Nguyễn Văn Kỉnh là tên một nhân vật lịch sử
Nguyễn Văn Kỉnh (1916 – 1981) là nhà cách mạng hoạt động trong lĩnh vực tuyên huấn, nhà ngoại giao Việt Nam, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa II, khóa III, người hai lần làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn vào năm 1945 và 1954, Phó bí thư Xứ ủy Nam Bộ, Phó Ban Tuyên huấn Trung ương, Đại sứ Việt Nam tại Liên Xô, Phó ban Đối ngoại Trung ương.
Nguyễn Văn Kỉnh có bí danh là Thượng Vũ, Trung Nam, anh Tư Kỉnh.
Nguyễn Văn Kỉnh sinh ra và lớn lên tại thành phố Sài Gòn trong một gia đình trí thức, mang quốc tịch Pháp, học trường Petrus Ký. Cha ông là Nguyễn Văn Thiệp, một viên chức Pháp, và mẹ ông là bà Nguyễn Thị Cáo.
Hoạt động báo chí cách mạng
Ông tham gia cách mạng năm 1932. Năm 1938, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, được bầu cử vào Xứ ủy Nam Kỳ, tổ chức và lãnh đạo Hội Liên hiệp Thanh niên Sài Gòn.
Ông tham gia hoạt động báo chí là cây viết báo lớn: báo Thanh Niên Đỏ (năm 1932), báo L’Avant Garde, Dân Chúng (trong Mặt trận Dân chủ 1937 – 1939), báo Giải Phóng (1941), báo Cứu Quốc của Việt Minh (1945), tạp chí Mácxít, báo Thống Nhất, báo Nhân dân Miền Nam (kháng chiến chống Pháp).
Năm 1935, bị Pháp bắt, kết án 1 năm tù, sau chuyển thành 18 tháng án treo.
Năm 1936, tham gia vận động phong trào Đông Dương Đại hội. Năm 1939, ủy viên Liên khu tỉnh ủy Miền Đông.
Nguyễn Văn Kỉnh tham gia Ban lãnh đạo cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ. Tại cuộc hội nghị Xứ ủy Nam kỳ mở rộng vào hạ tuần tháng 1-1941 ở xã Đa Phước huyện Cần Giuộc để kiểm điểm nguyên nhân thất bại của cuộc khởi nghĩa Nam kỳ và chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa lần thứ hai, ông được bầu vào cơ quan lãnh đạo đầu não của Xứ ủy Nam kỳ, trực tiếp phụ trách công tác tuyên huấn và tờ báo “Giải phóng” – cơ quan tuyên truyền của Xứ ủy.
Cơ quan của báo “Giải phóng” được thiết lập tại Hố Bần thuộc vùng ven đô thành phố Sài Gòn. Báo ra được 11 số – từ ngày 22-1-1941 đến 16-7-1941 thì tạm ngưng, vì Nguyễn Văn Kỉnh bị địch bắt lần thứ tư vào đầu tháng 8-1941 và bị kết án tử hình cùng với 157 đồng chí khác đã tham gia cuộc khởi nghĩa Nam kỳ. Sau đó, một số người được giảm xuống án tù chung thân – trong số này có Nguyễn Văn Kỉnh.
Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp, ông thoát khỏi nhà tù trở về Sài Gòn hoạt động. Ông được bổ sung vào Xứ ủy Nam Kỳ phụ trách tuyên truyền kiêm Bí thư Thành ủy Sài Gòn – Chợ Lớn từ tháng 5/1945, ông đã góp phần quan trọng trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Sài Gòn.
Lãnh đạo quân dân Nam Bộ trong Kháng chiến chống Pháp
Ngày 06/01/1946, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội Việt Nam đại diện tỉnh Hà Tiên.
Sau ngày Nam Bộ Kháng chiến 23/9/1945, ông hoạt động chủ yếu ở Nam Bộ hoạt động chủ yếu về công tác tuyên huấn. Năm 1947 khi thành lập Xứ ủy Nam Bộ do ông Lê Duẩn làm Bí thư, ông được bầu làm Phó Bí thư thường trực Xứ ủy Nam Bộ cùng với ông Nguyễn Đức Thuận. Ông còn là Giám đốc trường Đảng nổi tiếng của Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp – trường Trường Chinh tại chiến khu Đồng Tháp Mười. Ông có biệt danh là anh Tư hay Tư Kỉnh.
Tại Đại hội lần thứ hai của Đảng năm 1951, ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, là một trong sáu thành viên tham gia thành lập Trung ương Cục miền Nam cùng với các ông Lê Đức Thọ, Lê Duẩn, Phạm Hùng, Ung Văn Khiêm, Hà Huy Giáp, được giao phụ trách Văn phòng Trung ương Cục.. Trung ương Cục miền Nam là một bộ phận trong Bộ Tham mưu chiến đấu tối cao của Đảng, hoạt động ở chiến trường xa Trung ương và Hồ Chí Minh, đảm đương trách nhiệm nặng nề là lãnh đạo quân dân ta ra sức đánh bại đội quân viễn chinh xâm lược Pháp trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và trường kỳ ở miền cực Nam đất nước.
Nguyễn Văn Kỉnh dùng bút danh Trung Nam (viết tắt của Trung ương Cục miền Nam) để viết báo trong những năm kháng chiến. Với cương vị Phó Bí thư thường trực Xứ ủy Nam Bộ, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam, ông thường ký tên trong công văn, giấy tờ báo cáo công điện gởi ra Trung ương, cũng như cho các cơ quan Quân, Dân, Chính, Đảng ở các cấp.
Nguyễn Văn Kỉnh không bao giờ tự nói về mình, luôn toát lên phong cách của một con người hiền hậu, khiêm tốn, vui vẻ, gần gũi. Ông gần cán bộ đến mức mỗi khi tiếp xúc không ai có cảm giác mối quan hệ giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo, giữa cấp trên và cấp dưới. Ông sống tự nhiên, không bao giờ kiểu cách, phô trương.
Về phương pháp công tác, vì ông là ủy viên thường trực của Xứ ủy rồi của T.Ư Cục nên cán bộ các ban, ngành, sở, đoàn thể thường xuyên đến xin ý kiến ông. Ông luôn chăm chú nghe, trao đổi, giải thích, tiếp thu rồi chỉ đạo rất sâu sắc, toàn diện, từ công tác người Hoa, Cao Đài, Hòa Hảo, trí thức, địa chủ yêu nước, công tác của công đoàn, nông hội, thanh niên, phụ nữ, Công giáo, người Khơme
Năm 1954, ông làm Bí thư Khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn, sau đó tập kết ra Bắc, làm Phó ban Tuyên huấn Trung ương.
Tại đại hội lần thứ ba của Đảng năm 1960, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hoạt động trong ngành ngoại giao
Từ năm 1957 đến 1974 ông chuyển sang ngành ngoại giao, được Đảng và Nhà nước tín nhiệm cử giữ các chức vụ Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam thứ hai tại Liên Xô trong thời gian 10 năm từ năm 1957 đến năm 1967, (đại sứ Việt Nam tại Liên Xô đầu tiên là ông Nguyễn Lương Bằng, người kế nhiệm là ông Nguyễn Thọ Chân) và Rumani, Anbani, phụ trách Ủy ban đoàn kết Á – Phi và Mỹ Latinh.
Năm 1957 ông được bầu làm Chủ tịch danh dự Hội Quốc tế ngữ bảo vệ hòa bình Việt Nam. Hội Quốc tế ngữ Bảo vệ Hòa bình – tiền thân của Hội Quốc tế ngữ Esperanto Việt Nam thành lập ngày 21-1-1957 với tên đầy đủ là “Hội Quốc tế ngữ Bảo vệ Hòa bình Việt Nam” (VPEA: Vjetnama Pacdefenda Esperantista Asocio).
Khi về nước ông làm Phó Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Đảng Đoàn Các tổ chức đoàn kết và hữu nghị.
Từ 1974 – 1978, ông là Chủ tịch và từ 1980 – 1981, là Phó Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội hữu nghị Việt Nam – Liên Xô.
Do bị bệnh nặng ông mất ngày 26/10/1981 tại Liên Xô, thọ 65 tuổi. Thi hài ông sau đó được chuyển về nước và an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ Mai Dịch, huyện Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.
TỔNG QUAN VÀ NHỮNG ĐIỂM NỔI BẬT CỦA QUÂN 2
Quận 2 là một quận nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 2 là quận mới đô thị hóa, nơi có Khu đô thị mới Thủ Thiêm trong tương lai gần là trung tâm tài chính thương mại mới của Thành phố Hồ Chí Minh.
Vị trí địa lý Quận 2
- Quận 2 là một trong năm quận nằm ở phía Đông Bắc Thành phố Hồ Chí Minh:
- Phía Bắc giáp quận Thủ Đức.
- Phía Nam giáp sông Sài Gòn, ngăn cách với quận 7, sông Nhà Bè, ngăn cách với huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
- Phía Tây theo thứ tự từ Bắc xuống Nam lần lượt ngăn cách với quận Bình Thạnh, quận 1 và quận 4 bởi sông Sài Gòn.
- Phía Đông giáp quận 9.
Phân Chia hành chính Quận 2
Quận 2 được chia thành 11 phường: An Khánh, An Lợi Đông, An Phú, Bình An, Bình Khánh, Bình Trưng Đông, Bình Trưng Tây, Cát Lái, Thạnh Mỹ Lợi, Thảo Điền, Thủ Thiêm.
Trong đó, phường Thạnh Mỹ Lợi là trung tâm của quận.
Cơ Sở hạ tầng Quận 2
Hiện nay trên địa bàn quận 2 đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như khu đô thị Thủ Thiêm, khu đô thị Sala, khu đô thị Cát Lái, khu đô thị Palm City, khu đô thị Marina Bay Thủ Thiêm, khu đô thị Sarah Thảo Điền, khu đô thị Empire City Thủ Thiêm, khu đô thị Lake View City, khu đô thị Citi Bella, khu đô thị Cityland Bình Trưng Đông, khu đô thị Phố Đông Village, khu đô thị Citi Home, khu đô thị Ventura, khu đô thị Spring Life, khu đô thị An Phú – An Khánh…
Quận 2 từ lâu đã được nổi tiếng với công trình thế kỷ “Cầu Sài Gòn”
Vị trí địa lý Cầu Sài Gòn
Vị trí: Thành phố Hồ Chí Minh
Bắc qua: sông Sài Gòn
Thông số kỹ thuật:
- Kiểu cầu Cầu bê tông
- Vật liệu Bê tông
- Chiều dài 986,12 m
- Rộng 24 m
- Nhịp chính 267,45 m
Nhà thầu xây dựng cầu Sài Gòn
- Nhà thầu Johnson Drake and Piper
- Khởi công tháng 11, 1958
- Khánh thành 28 tháng 6 năm 1961
Lịch sử hình thành Cầu Sài Gòn
Cầu Sài Gòn (trước năm 1975 tên là cầu Tân Cảng) là một trong những cây cầu bắc qua sông Sài Gòn nối đường Điện Biên Phủ (quận Bình Thạnh) với Xa lộ Hà Nội (Quận 2), Thành phố Hồ Chí Minh. Cho đến khi đường hầm Thủ Thiêm được xây dựng xong thì đây vẫn là cửa ngõ chính để vào nội ô Thành phố Hồ Chí Minh từ các tỉnh miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Cầu được công ty Johnson Drake and Piper thi công từ tháng 11 năm 1958 đến ngày 28 tháng 6 năm 1961 thì hoàn thành. Cầu dài 986,12 m, gồm 32 nhịp, trong đó có 3 nhịp với chiều dài 267,45m. Cầu được sửa chữa 3 lần vào các năm 1995, 1996. Năm 1998, cầu được tiến hành nâng cấp và sửa chữa với tổng kinh phí 54 triệu franc từ nguồn vốn viện trợ của Pháp và đến tháng 6 năm 2000 thì hoàn thành. Sau khi nâng cấp, mặt cầu được mở rộng từ 19,63m lên 24m đạt tải trọng H30-XB80, có 4 làn xe, có tải trọng 32 tấn, đáp ứng nhu cầu giao thông ngày càng cao của thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 12/5/2011, công trình nâng cấp, sửa chữa cầu Sài Gòn do Công ty Freyssinet Việt Nam khởi công thực hiện. Cầu Sài Gòn được thi công các hạng mục như gia cường mặt bê-tông, nhịp thép, hệ thống đỡ nhịp treo, trụ đỡ, gia cố các mối nối, thay thế khe co giãn… trong thời gian 6 tháng với tổng mức kinh phí khoảng 64 tỷ đồng. Dự án nâng cấp, sửa chữa cầu Sài Gòn do Công ty Freyssinet Việt Nam làm tổng thầu theo hình thức EPC (chìa khóa trao tay), đảm nhiệm tất cả công đoạn từ lập dự án, thiết kế, cung cấp thiết bị, vật tư và xây dựng công trình. Sau khi nâng cấp, sửa chữa, cầu Sài Gòn được tăng tải đảm bảo theo tiêu chuẩn HL-93 không hạn chế tải trọng qua cầu.
Cầu Sài Gòn 2
Cầu Sài Gòn 2 do Công ty Cổ phần Đầu tư hạ tầng kỹ thuật TP Hồ Chí Minh thực hiện trong 18 tháng, khởi công xây dựng ngày 14/4/2012 hoàn thành ngày 15/10/2013. Cầu Sài Gòn 2 song song với cầu Sài Gòn 1 hiện hữu, cách khoảng 3m về phía hạ lưu, có tổng chiều dài hơn 987m, gồm 30 nhịp. Kết cấu nhịp chính được bố trí theo sơ đồ 5 nhịp liên tục bằng bê tông cốt thép dự ứng lực.
Dự án cầu Sài Gòn 2 đã được Công ty Cổ phần Đầu tư hạ tầng kỹ thuật TP.HCM lên kế hoạch hoàn thành trong vòng 21 tháng, rút ngắn tiến độ so với các đơn vị thiết kế trước đó. Và thực tế thi công đã rút xuống còn 18 tháng, tiết kiệm chi phí hàng trăm tỷ đồng cho ngân sách. Sau khi đưa vào sử dụng đã giải quyết triệt để điểm nghẽn ở cửa ngõ phía Đông Bắc của TP.HCM.
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Nguyễn Văn Kỉnh, Quận 2 nhận giao tận nhà khách hàng gồm 11 phường. Quý Khách hàng có nhu cầu sử dụng gas Gia Đình tại khu vực quận 2, vui lòng gọi chúng tôi qua số (028) 6683 6644.
Một Số công trình tiêu biểu tại Quận 2
Đường hầm sông Sài Gòn
Thông tin chung
- Tên cũ Hầm Thủ Thiêm
- Tên khác Hầm dìm Thủ Thiêm
- Dạng Bê tông cốt thép
- Địa điểm sông Sài Gòn
- Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
- Quốc gia Việt Nam
- Địa chỉ Nối quận 1 và quận 2 thành phố Hồ Chí Minh
Xây dựng
- Khởi công 2004
- Khánh thành 21/11/2011
- Nhà thầu chính Obayashi Corporation
- Chi phí xây dựng ban đầu 67,055 tỉ Yên tương đương 8.101,410 tỉ VND thời điểm năm 2000.
Kích thước
- Kích thước khác rộng 33,3 m
- Chiều dài = 1.490m
- Chiều cao 8.9 m
Đường hầm sông Sài Gòn (hay còn gọi là Hầm Thủ Thiêm) là một đường hầm vượt qua sông Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Đây là một phần trong dự án Đại lộ Đông Tây nối Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh với Khu đô thị mới Thủ Thiêm. Đường hầm có sáu làn xe ô tô, được dìm dưới lòng sông Sài Gòn (có ngầm đáy sông). Nguồn vốn đầu tư từ Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của chính phủ Nhật Bản có vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam. Tổng thầu thi công là liên doanh các nhà thầu Nhật Bản. Theo quy hoạch, Khu đô thị mới Thủ Thiêm được kết nối với đô thị hiện hữu bằng một số cây cầu như: Cầu Thủ Thiêm nối Quận Bình Thạnh, cầu Ba Son nối với Quận 1, Cầu Phú Mỹ nối với Quận 7 và một cây cầu nữa nối với Quận 4. Chiều ngày 20 tháng 11 năm 2011, lễ thông xe hầm Thủ Thiêm được tổ chức. Sáng ngày 21 tháng 11, hầm Thủ Thiêm chính thức được thông xe sau gần 7 năm thi công, kết nối hai bờ sông và giảm tải cho cầu Sài Gòn, đồng thời làm động lực cho sự phát triển của thành phố. Công trình được đánh giá là hầm vượt hiện đại nhất Đông Nam Á.
Tháng 5 năm 1997, sau cuộc hội thảo về dự án công trình vượt sông Sài Gòn qua Thủ Thiêm, thì phương án đường hầm ở vị trí đường Hàm Nghi được chọn và vị trí này được đánh giá là phù hợp với quy hoạch của Thành Phố.
Báo cáo nghiên cứu khả thi cuối cùng được duyệt vào tháng 6 năm 1997 với phương án xây dựng hầm qua sông Sài Gòn. Các đơn vị phối hợp thực hiện báo cáo nghiên cứu khả thi gồm công ty tư vấn Úc, G. Maunsell & Partners Ltd, công ty tứ vấn MVA, CES Enter, ngân hàng Sumitomo và AIC Maunsell, và JICA. Công việc xây dựng bị đình trệ đến năm 2004 do vướng các vấn đề về giải tỏa, đền bù và tái định cư các hộ dân trong khu vực dự án.
Thiết kế
Hầm được thiết kế gồm 6 làn xe (2 x 3 x 3,5m), từ cầu Calmette chìm xuống đáy sông Sài Gòn và nối với phía Thủ Thiêm tại đầu đường T13 với tổng chiều dài 1.490 m. Trong đó, lối vào hầm hai phía có dạng chữ U với tổng chiều dài 400 m; phần nhánh và miệng hầm hai phía dài 720 m; và phần hầm dìm dài 370 m. Phần hầm dìm được chia thành 4 đốt và được đúc riêng ở nơi khác, mỗi đốt nặng 27.000 tấn. Độ dốc hầm tối đa là 4%, đốt hầm làm bằng bê tông cốt thép. Hầm nằm dười đáy sông cách mặt nước 24 m, mặt cắt ngang rộng 33,3 m cao 8.9m bề dày đáy và nắp 1,5 m, bề dày vách hai bên 1m. Tốc độ xe lưu thông trong hầm đạt 60 km/giờ. Hầm có thể chịu được động đất 6 độ Richter và có tuổi thọ 100 năm.
Đánh giá về thiết kế
Báo cáo thẩm định của Viện Khoa học công nghệ xây dựng – Bộ Xây dựng (2003) cho rằng phương án thiết kế của nhà thầu Obayashi (Nhật) về gói thầu xây dựng hầm Thủ Thiêm có nhiều rủi ro. Theo đó, độ lún dự báo của công trình lớn, có khả năng gây nứt hỏng các đốt hầm trước khi đưa vào sử dụng và kiến nghị tìm phương án khác có độ tin cậy cao hơn. Về mặt tiếng ồn, do hầm bằng bê tông cốt thép có độ phẳng cao và được chôn sâu dưới lòng sông nên dòng xe qua lại sẽ tạo nên tiếng ồn khá lớn, Sở Giao thông Vận tải khuyến cáo người dân đi xe máy che kín tai và hạn chế chở trẻ em qua hầm.
Thi công
Hầm do nhà thầu chính thi công là Obayashi Corporation của Nhật Bản
Bể đúc hầm được đặt tại xã Phước Khánh, huyện Nhơn Trạch tỉnh Đồng Nai, ngay giáp sông Nhà Bè – đoạn trước khi sông Nhà Bè chia làm hai nhánh sông Lòng Tàu và Soài Rạp
Hầm được chia làm 5 đốt 4 đốt dài 92.4m và một đốt (End-unit) dài 3.5m
Các sự cố
Tháng 5-2008, theo báo cáo kết quả kiểm tra của Hội đồng nghiệm thu nhà nước về chất lượng công trình đại lộ Đông – Tây, hàng loạt vết nứt nứt trên tường và bản nắp trên các đốt hầm đã được ghi nhận. Các vết nứt ở thành tường thẳng đứng kéo dài từ 2m – 3m, bề rộng lớn nhất của vết nứt rộng đến 1 mm (theo tiêu chuẩn JSCE 2002 do nhà thầu Obayashi đưa ra thì mức độ bề rộng vết nứt cho phép đối với hầm là dưới 0,28 mm). Các vết nứt cũng xuất hiện ở vị trí giữa các phân đoạn đổ bê tông của mỗi đốt hầm. Các vết nứt này thẳng đứng kéo dài gần như hết chiều cao đốt hầm, bề rộng vết nứt đến 0,3 mm. Các vết nứt này được khắc phục bằng cách bơm keo epoxy đối với những vết nứt có chiều rộng lớn hơn 0.15mm và phủ keo epoxy lên bề mặt vết nứt có chiều rộng nhỏ hơn 0.15mm.
Hoàn thành
Chiều 20 tháng 11 năm 2011, lễ thông xe hầm Thủ Thiêm được tổ chức tại hai đầu hầm. Thành phần khách mời gồm khoảng 500 lãnh đạo của Việt Nam và Nhật Bản, lãnh sự quán các nước tại Thành phố Hồ Chí Minh cùng các tập đoàn đầu tư nước ngoài.
Từ 6 giờ sáng ngày 21 tháng 11, hầm Thủ Thiêm chính thức được thông xe.
Vấn đề an toàn
90 lính cứu hỏa, 10 xe đặc chủng và một tàu chữa cháy sẽ túc trực ngày đêm để hỗ trợ cho khu vực hầm khi cần thiết. Một số phương tiện và thời gian sử dụng hầm bị hạn chế để đảm bảo độ an toàn. Ngoài ra, việc lưu thông qua hầm phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về tốc độ, đèn chiếu sáng và âm thanh. Trong hầm còn được thiết kế hệ thống báo cháy tự động và hệ thống chữa cháy phân bố dọc hầm, 41 loa phát thanh và 20 camera theo dõi. Toàn bộ hầm được thiết kế 38 cửa thoát nạn.
Tầm ảnh hưởng
Hầm Thủ Thiêm là hạng mục quan trọng nhất trong dự án đại lộ Đông – Tây. Bên cạnh việc giải toả áp lực cho cầu Sài Gòn, tuyến đường mới qua hầm rút ngắn thời gian từ trung tâm thành phố về các tỉnh miền Tây lẫn miền Đông, tạo nền tảng phát huy giao thương liên tỉnh. Hầm Thủ Thiêm góp phần lớn trong việc tạo thành mạng lưới giao thông khá hoàn chỉnh ở phía đông, giảm áp lực cho giao thông trung tâm và là động lực phát triển Khu đô thị mới Thủ Thiêm. Số lượng đền bù giải tỏa ở dự án này được đánh giá là có quy mô lớn nhất thành phố. Dự án hầm Thủ Thiêm đã cải thiện cuộc sống của hàng chục ngàn cư dân ven kênh rạch vào năm khu tái định cư và nhiều khu dân cư khác.Theo dự kiến, mỗi ngày hầm sẽ có 40.000 ôtô và 10.000 xe máy tham gia lưu thông.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN QUẬN 2
Địa bàn quận 2 từ năm 1997 đến nay khác hẳn với quận 2 cũ trước năm 1976. Trong giai đoạn 1967-1976, một phần nhỏ địa bàn quận 2 ngày nay chính là quận 9 (quận Chín) cũ của Đô thành Sài Gòn và sau đó là Thành phố Sài Gòn – Gia Định. Quận 9 khi đó gồm 02 phường: An Khánh và Thủ Thiêm (nay là các phường An Khánh, Bình An, Bình Khánh, Thủ Thiêm, An Lợi Đông).
Quận 2 cũ, trước năm 1976
Thời Pháp thuộc
Tháng 9 năm 1889, thành phố Sài Gòn được chia thành hai quận cảnh sát (arrondissement policier): Quận 1 và Quận 2, đứng đầu mỗi quận cảnh sát là vị Quận trưởng cảnh sát (Commissaire).
Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh hợp nhất thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn thành một đơn vị hành chính mới gọi là Khu (một số tài liệu gọi là “Địa phương”) Sài Gòn – Chợ Lớn (Région Saigon – Cholon ou Région de Saigon – Cholon). Quận 2 thuộc Khu Sài Gòn – Chợ Lớn.
Ngày 30 tháng 6 năm 1951, Thủ tướng chính quyền Quốc gia Việt Nam ký sắc lệnh số 311-cab/SG đổi tên Khu Sài Gòn – Chợ Lớn thành Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn. Lúc này, quận 2 thuộc Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn.
Thời Việt Nam Cộng hòa
Theo sắc lệnh số 143/NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn. Khi đó, quận 2 lại thuộc Đô thành Sài Gòn.
Ngày 27 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 110-NV về việc phân chia sáu quận đang có thành tám quận mới: Nhứt, Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy và Tám (trừ ba quận: Nhứt, Nhì, Ba giữ nguyên, các quận còn lại đều đổi tên và thay đổi địa giới hành chính). Lúc này, quận 2 (quận Nhì) trùng với địa giới quận Nhì cũ; có 04 phường: Chợ Bến Thành, Cầu Ông Lãnh, Cầu Kho, Nhà thờ Huyện Sĩ.
Năm 1962, quận Nhì lập thêm 03 phường: Bùi Viện, Nguyễn Cảnh Chân và Nguyễn Cư Trinh. Như thế lúc này quận có 07 phường.
Năm 1972, đổi tên phường Chợ Bến Thành của quận Nhì thành phường Bến Thành.
Cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, quận 2 (quận Nhì) gồm 07 phường: Bến Thành, Bùi Viện, Cầu Ông Lãnh, Cầu Kho, Nhà thờ Huyện Sĩ, Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Cư Trinh.
Giai đoạn 1975-1976
Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn – Gia Định được thành lập. Lúc này, quận 2 (quận Nhì) thuộc thành phố Sài Gòn – Gia Định cho đến tháng 5 năm 1976. Đồng thời, có những điều chỉnh do phường hiện hữu có diện tích quá nhỏ hoặc tương đối ít dân cư như, trong đó quận Nhì sáp nhập phường Bến Thành vào phường Nhà thờ Huyện Sĩ, phường mới mang tên phường Huyện Sĩ. Như thế lúc này quận Nhì còn 06 phường.
Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh thành phố Sài Gòn – Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban Nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn – Gia Định). Theo đó, quận Nhất và quận Nhì cũ hợp nhất lại thành quận 1 cho đến ngày nay. Như vậy quận 2 cũ bị giải thể vào năm 1976.
Quận 2 mới, từ năm 1997 đến nay
Ngày 6 tháng 1 năm 1997, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 03-CP về việc thành lập các quận, phường mới thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung về việc thành lập Quận 2 và các phường thuộc Quận 2 như sau:
- Thành lập Quận 2 trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các xã An Phú, An Khánh, Thủ Thiêm, Bình Trưng, Thạnh Mỹ Lợi thuộc huyện Thủ Đức.
- Quận 2 có 5.020 ha diện tích tự nhiên và 86.027 nhân khẩu.
- Thành lập các phường thuộc Quận 2 như sau:
- Thành lập phường An Phú trên cơ sở 1.042 ha diện tích tự nhiên và 6.724 nhân khẩu của xã An Phú. Phường An Phú có 1.042 ha diện tích tự nhiên và 6.724 nhân khẩu.
- Thanh lập phường Thảo Điền trên cơ sở 375 ha diện tích tự nhiên và 6.714 nhân khẩu của xã An Phú. Phường Thảo Điền có 375 ha diện tích tự nhiên và 6.714 nhân khẩu.
- Thành lập phường An Khánh trên cơ sở 169 ha diện tích tự nhiên và 12.865 nhân khẩu của xã An Khánh. Phường An Khánh có 169 ha diện tích tự nhiên và 12.865 nhân khẩu.
- Thành lập phường Bình Khánh trên cơ sở 226 ha diện tích tự nhiên và 6.580 nhân khẩu của xã An Khánh. Phường Bình Khánh có 226 ha diện tích tự nhiên và 6.580 nhân khẩu.
- Thành lập phường Bình An trên cơ sở 169 ha diện tích tự nhiên và 6.774 nhân khẩu của xã An Khánh. Phường Bình An có 169 ha diện tích tự nhiên và 6.774 nhân khẩu.
- Thành lập phường Thủ Thiêm trên cơ sở 135 ha diện tích tự nhiên và 9.325 nhân khẩu của xã Thủ Thiêm. Phường Thủ Thiêm có 135 ha diện tích tự nhiên và 9.325 nhân khẩu.
- Thành lập phường An Lợi Đông trên cơ sở 385 ha diện tích tự nhiên và 5.068 nhân khẩu của xã Thủ Thiêm. Phường An Lợi Đông có 385 ha diện tích tự nhiên và 5.068 nhân khẩu.
- Thành lập phường Bình Trưng Tây trên cơ sở 222 ha diện tích tự nhiên và 7.832 nhân khẩu của xã Bình Trưng. Phường Bình Trưng Tây có 222 ha diện tích tự nhiên và 7.832 nhân khẩu.
- Thành lập phường Bình Trưng Đông trên cơ sở 345 ha diện tích tự nhiên và 10.496 nhân khẩu của xã Bình Trưng. Phường Bình Trưng Đông có 345 ha diện tích tự nhiên và 10.496 nhân khẩu.
- Thành lập phường Cát Lái trên cơ sở 669 ha diện tích tự nhiên và 6.567 nhân khẩu của xã Thạnh Mỹ Lợi. Phường Cát Lái có 669 ha diện tích tự nhiên và 6.567 nhân khẩu.
- Thành lập phường Thạnh Mỹ Lợi trên cơ sở 1.283 ha diện tích tự nhiên và 7.091 nhân khẩu của xã Thạnh Mỹ Lợi. Phường Thạnh Mỹ Lợi có 1.283 ha diện tích tự nhiên và 7.091 nhân khẩu.
Đại Lý Gas Gia Đình Đường Nguyễn Văn Kỉnh, Quận 2 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách gồm 11 phường, phục vụ giao gas trên mọi nẻo đường của Quận 2. Khách hàng có nhu cầu sử dụng gas Gia Đình tại Quận 2, xin vui lòng gọi qua số (028) 6683 6644
|
|
|
|
TỔNG ĐÀI TIẾP NHẬN GIAO GAS (028) 6683 6644
Giao Gas 24 quận huyện Tp. Hồ Chí Minh