Gas Gia Đình Đường Đinh Công Tráng, Quận 1 chuyên giao lẻ gas Gia Đình dân dụng 12kg tại nhà cho hộ gia đình, chung cư, căn hộ, chung cư cao cấp và giao sỉ gas Gia Đình dân dụng – gas Gia Đình công nghiệp 45kg cho quán ăn, nhà hàng, khách sạn, quán nhậu, văn phòng công ty, căn tin, bếp ăn công nghiệp… tại Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh. Khách hàng có nhu cầu đổi gas Gia Đình vui lòng gọi (028) 6683 6644
Gas Gia Đình Đường Đinh Công Tráng, Quận 1 với dịch vụ giao gas chuyên nghiệp
Gas Gia Đình Đường Đinh Công Tráng, Quận 1 giao gas nhanh và an toàn
- Luôn chủ động giao gas nhanh nhất đến nhà khách hàng.
- Luôn giao gas Gia Đình chính hãng, có thương hiệu đảm bảo chất lượng.
- Luôn cân bình gas tại nhà khách hàng, đảm bảo đủ ký.
- Luôn kiểm tra rò rỉ gas mỗi khi giao gas để đảm bảo an toàn cho khách hàng.
Giao Gas Gia Đình Chính Hãng |
Gas Gia Đình Luôn Cân Gas Tại Nhà |
Gas Gia Đình Đường Đinh Công Tráng, Quận 1 luôn có hậu mãi chu đáo
- Có đội ngũ bảo trì định kỳ bếp gas, van gas, dây dẫn gas hoàn Toàn miễn phí.
- Sửa bếp gas miễn phí cho khách hàng trong suốt quá trình sử dụng.
- Được đội ngũ của đại lý gas Bình Minh giao tận nhà.
- Hệ Thống giao gas 24 quận huyện Tp.Hồ Chí Minh.
- Khách hàng có nhu cầu ký hợp đồng, sử dụng số lượng nhiều, vui lòng liên hệ tổng đài (028) 6683 6644 để có chính sách giá tốt nhất.
Những sản phẩm Đại Lý Gas Gia Đình Đường Đinh Công Tráng, Quận 1 bán nhiều nhất:
Gas Gia Đình Vàng |
Gas Gia Đình Xám |
Gas Bình Minh Vàng |
GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY GAS GIA ĐÌNH
- Tên đầy đủ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MTV KHÍ ĐỐT GIA ĐÌNH
- Địa chỉ Khu phố 4, Lã Xuân Oai, phường Tăng Nhơn Phú A, Quận 9, TP. HCM
- Điện thoại, Fax 8.54136338 – Fax: 8.5413634
- Website, Email Website: www.anphapetrol.com – Email:info.gds@anphapetrol.com
Giới thiệu sơ lược về doanh nghiệp
Công ty Cổ phần Tập Đoàn Dầu khí An Pha là một trong những công ty hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh khí hóa lỏng ở Việt Nam.
Là một trong 3 công ty chiếm lĩnh thị phần gas dân dụng lớn nhất cả nước (Sài Gòn Petro, An pha Petrol và Petrolimex).
Là một trong 4 công ty kinh doanh gas hàng đầu Việt Nam có hệ thống kho chứa đầu mối ở cả hai miền Nam Bắc (Petrolimex Gas, Petronas – Thăng Long Gas, Petro Vietnam Gas và An pha Petrol).
Là công ty gas duy nhất có hệ thống hoàn chỉnh từ khâu nhập khẩu, vận tải, tồn trữ đến phân phối bán buôn, bán lẻ trên địa bàn toàn quốc với qui mô lớn.
Công ty hiện sở hữu 2 thương hiệu gas có uy tín trên thị trường Nam Bắc:
- Thương hiệu An pha Petrol – là thương hiệu của Công ty mẹ và cũng là thương hiệu của cả Tập đoàn, chiếm 7% thị phần Miền Nam.
- Ở miền Bắc, thương hiệu Gia dinh Gas thuộc Công ty TNHH Khí đốt Gia Định (Hà Nội) chiếm khoảng 10% thị phần, nằm trong Top 5 công ty có thị phần lớn nhất miền Bắc.
- Ở miền Nam, thương hiệu Gia dinh Gas thuộc Công ty TNHH MTV Khí Đốt Gia Đình (Quận 9, TPHCM) chiếm 5% thị phần, nằm trong Top 10 công ty có thị phần lớn nhất miền Nam.
An pha Petrol nhanh chóng có được vị thế đó một phần rất lớn là do thiết lập được mối quan hệ hợp tác bền vững và tin cậy với những tên tuổi lớn trong ngành từ Bắc đến Nam như: Petro Vietnam, Petrolimex, Sài Gòn Petro, Thăng Long Gas, VTGas …
Thời gian gần đây với sự phát triển mạnh mẽ và tiềm năng to lớn, An pha Petrol đã thu hút được sự quan tâm của các tổ chức quốc tế và trong nước.
Đó là sự đầu tư của các tập đoàn nước ngoài và ngân hàng quốc doanh hàng đầu trong nước:
- Quỹ phát triển Việt Nhật (Japan-Vietnam Growth Fund L.P.): do Tập đoàn Sojitz, Quỹ đầu tư Châu Á và một số ngân hàng Nhật Bản sáng lập vào tháng 9/2006. để đầu tư vào Việt Nam.
- Tập đoàn Sojitz: là một tập đoàn lớn của Nhật, nổi tiếng trên lĩnh vực cung ứng và xuất nhập khẩu LPG trên toàn thế giới.
- Công ty chứng khoán SK (SK Securities) thuộc tập đoàn SK của Hàn Quốc.
Để biết thông tin chi tiết về gas Gia Đình, giá bán các loại gas Gia Đình dân dụng 12kg, gas Gia Đình công nghiệp 45kg, chính sách giao gas, chính sách hậu mãi. Quý khách vui lòng liên hệ qua số (028) 6683 6644
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GAS GIA ĐÌNH
Tiền thân của Tập đoàn Dầu khí An pha Petrol là Công ty TNHH DV – TM Gia Đình (nay là Công ty TNHH MTV Khí Đốt Gia Đình).
Tháng 4/1999, Công ty TNHH DV – TM Gia Đình được thành lập với chức năng chuyên kinh doanh gas dân dụng và gas công nghiệp.
Tháng 4/2004 thị trường có nhiều biến động, do nhu cầu phát triển, Công ty cổ phần Dầu khí An Pha S.G (nay là Công ty Cổ phần Tập Đoàn Dầu khí An Pha) được thành lập, với mục đích đầu tư và quản lý hệ thống cơ sở hạ tầng đầu vào cũng như hệ thống kho dự trữ đầu mối và vận tải LPG cho đối tác chiến lược và các công ty kinh doanh Gas dân dụng thương hiệu Gia dinh Gas.
Tháng 4/2005 thành lập Công ty Cổ phần Dầu khí An Pha tại Hà Nội nhằm quản lý khai thác kho đầu mối các tỉnh phía Bắc.
Tháng 03/2007 mua lại phần vốn góp và sở hữu 99% Công ty TNHH DV – TM Gia Đình và thương hiệu Gia dinh Gas( nay là Công ty TNHH MTV Khí Đốt Gia Đình).
Tháng 3/2007 trở thành Công ty đại chúng.
Tháng 4/2007 mua lại phần góp vốn và sở hữu 51% Công ty MTV Dầu Khí An Pha Tây Ninh (tức Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại L.P.G Minh Thông) và thương hiệu JP GAS
Đồng thời thành lập Công ty cổ phần Đầu tư Thủy điện An Pha ở Sơn La để thực hiện các dự án thủy điện trọng điểm ở Sơn La, Cao Bằng với tỷ lệ sở hữu 55%.
Tháng 5/2007 mua lại phần góp vốn và sở hữu 60% Công ty TNHH Khí Đốt Gia Định (Hà Nội)
Tháng 6/2007 thành lập Công ty Cổ Phần Dầu khí An Pha Tây Nguyên (Đăklăk) để mua lại DNTN Hoàng Minh và thương hiệu Dakgas , tỷ lệ sở hữu là 55%.
Tháng 9/2007 ký kết hợp đồng đầu tư và hợp tác chiến lược với tập đoàn dầu khí quốc tế đến từ Nhật Bản – Sojitz Petroleum Co. Pte. Ltd và Quỹ đầu tư phát triển Việt Nhật thông qua hợp đồng bán 5,5% cổ phần.
Tháng 10/2007 ký kết hợp đồng đầu tư bán 10% cổ phần cho Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam. Trong thời gian này Công ty lại tiếp tục ký kết hợp đồng đầu tư chiến lược bán 8% cổ phần cho Công ty chứng khoán SK (SK Securities).
Để tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh, Công ty mẹ đã quyết định bán lại một số công ty con, tập trung vào các mũi hoạt động chủ lực nhằm thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ những lợi thế chính của Tập đoàn :
Tháng 6/2009 : Bán lại Công ty cổ phần Đầu tư Thủy điện An Pha.
Tháng 7/2011 : Bán lại Công ty MTV Dầu Khí An Pha Tây Ninh.
Tháng 7/2011 : Bán lại Công ty Cổ Phần Dầu khí An Pha Tây Nguyên.
Kể từ khi thành lập đến nay, Anpha Petrol luôn chú trọng đầu tư phát triển, đưa Tập đoàn ngày càng lớn mạnh và hiện nay là Tập đoàn Dầu khí tư nhân lớn mạnh nhất ở Việt Nam.
Anpha Petrol cũng tích cực tham gia nhiều các hoạt động xã hội, là Nhà tài trợ cho các Giải bóng đá trong nước. Được nhận nhiều Giấy khen, Bằng khen của Chính quyền và các Bộ, ngành.
Đinh Công Tráng là lãnh tụ chính của khởi nghĩa Ba Đình
Đinh Công Tráng (1842 – 1887) là lãnh tụ chính của khởi nghĩa Ba Đình (tên cứ điểm ở huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá) trong phong trào Cần Vương chống Pháp ở cuối thế kỷ XIX tại Việt Nam.
Thân thế & sự nghiệp Đinh Công Tráng
Đinh Công Tráng sinh năm Nhâm Dần (1842) tại làng Trinh Xá, huyện Thanh Liêm (nay là xã Thanh Tân, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam).
Khi quân Pháp tiến hành công cuộc xâm chiếm Bắc Kỳ, đang là một chánh tổng, ông đến gia nhập đội quân của Hoàng Kế Viêm, rồi tham gia trận Cầu Giấy ngày 19 tháng 5 năm 1883.
Khởi nghĩa Ba Đình
Bài chính: Khởi nghĩa Ba Đình
Tháng 7 năm 1885, sau khi kinh thành Huế thất thủ, tướng Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi lên chiến khu Tân Sở (Quảng Trị) ban dụ Cần Vương kêu gọi toàn dân kháng chiến. Hưởng ứng, tháng 2 năm 1886, Đinh Công Tráng cùng với các đồng đội của mình đã chọn vùng đất thuộc ba làng là: Mậu Thịnh, Thượng Thọ, Mỹ Khê (vì mỗi làng có một ngôi đình, từ làng này có thể nhìn thấy đình của hai làng kia, nên gọi là căn cứ Ba Đình; nay thuộc xã Ba Đình, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa) làm căn cứ kháng chiến lâu dài. Từ đây, nghĩa quân có thể tỏa đi các nơi, kiểm soát các tuyến giao thông quang trọng trong vùng, tổ chức phục kích các đoàn xe vận tải của đối phương đi lại trên con đường Bắc-Nam…Chính vì vậy, mà quân Pháp rất quyết tâm đánh dẹp.
Theo giúp Đinh Công Tráng có nhiều cộng sự, trong đó có Phạm Bành là người tài giỏi và đắc lực, đã cùng ông chỉ huy lực lượng nghĩa quân đánh bại hai đợt tấn công quy mô lớn của Pháp ngày 18 tháng 12 năm 1886 và ngày 6 tháng 1 năm 1887.
Trận ngày 18 tháng 12 năm 1886
Quân Pháp gồm 500 lính, có đại bác 80 ly yểm hộ, tấn công căn cứ Ba Đình từ hai hướng. Hướng tây nam do trung tá Metzanhzơ (Metzinzer), hướng đông bắc do trung tá Đôt (Dodds) chỉ huy, nhưng đều bị nghĩa quân đánh lui. Sau trận này, thấy không thể thắng nhanh được, nên quân Pháp chuyển sang phương án bao vây.
Trận ngày 6 tháng 1 năm 1887 – 21 tháng 1 năm 1887
Ngày 6 tháng 1 năm 1887, Trung tá Đôt lại cho quân tấn công đợt nữa, nhưng cũng không thành công, ông bèn cho quân rút ra xa, tổ chức bao vây và chờ viện binh.
Không thể để căn cứ Ba Đình tồn tại giữa vùng đồng bằng giáp ranh Thanh Hóa và Ninh Bình, làm cản trở công cuộc thôn tính nước Việt, Bộ Tư lệnh quân viễn chinh Pháp quyết định:
-Nâng số quân Pháp đánh Ba Đình lên 3.530 lính (1.580 lính Âu và 1.950 lính bản xứ). Ngoài ra, còn 5 nghìn dân binh và giáo dân của linh mục Trần Lục đến tiếp tay.
-Tăng số pháo sử dụng lên 36 khẩu, trong đó có 4 khẩu 95 ly, 10 khẩu 81 ly, 4 khẩu 65 ly,…
-Đưa 4 pháo hạm và nhiều thuyền lớn đến yểm trợ và lo việc tiếp vận.
-Cử Đại tá Brixô (Brissaud) làm tổng chỉ huy.
Sau khi cắt đứt xong đường tiếp tế của nghĩa quân, Đại tá Brissaud liền cho quân tiến đánh căn cứ Ba Đình. Lần này, Brissaud vừa cho phun dầu đốt cháy các lũy tre, vừa cho nã pháo tới tấp, biến căn cứ Ba Đình thành một biển lửa.
Trước sức mạnh của đối phương, đêm 20 rạng 21 tháng 1 năm 1887, Đinh Công Tráng cho quân phá vòng vây, rút về căn cứ dự phòng ở Mã Cao.
Sáng ngày 21 tháng 1 năm 1887, quân Pháp chiếm được cứ điểm Ba Đình. Sau khi ra sức tàn phá, họ còn bắt buộc triều đình nhà Nguyễn phải xóa tên ba làng trên bản đồ hành chính.
Trận đồn Mã Cao
Thủ lĩnh Đinh Công Tráng vừa đến Mã Cao, chưa kịp củng cố lực lượng, thì đã bị quân Pháp đuổi theo tấn công. Ngày 2 tháng 2 năm 1887, một trận giao tranh ác liệt đã xảy ra ở đây. Thấy không đủ sức kháng cự, lợi dụng lúc đêm tối, các thủ lĩnh đành phải cho quân rút theo hướng Thung Voi, Thung Khoai, rồi lên miền Tây Thanh Hóa sáp nhập với đội nghĩa quân của Cầm Bá Thước. Một số khác theo Đinh Công Tráng rút về Nghệ An.
Hy sinh
Về Nghệ An, Đinh Công Tráng định gây lại phong trào, nhưng đến ngày 5 tháng 10 năm 1887 thì ông đã hy sinh trong một trận chiến đấu với đối phương tại làng Trung Yên, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
Nhận xét
Tướng Pháp tên là Mason nhận định về Đinh Công Tráng như sau:
Đinh Công Tráng là người có trật tự, trọng kỷ luật, cương trực, hay nghiêm trị những thủ hạ quấy nhiễu dân; có chí nhẫn nại, biết mình, biết người, không bao giờ hành binh cẩu thả, giỏi lập trận thế.
Đề cập đến sự thất bại của ông, nhóm tác giả sách Đại cương lịch sử Việt Nam (Tập 2) cho rằng:
Thất bại của ông bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, mà trực tiếp là do chiến thuật phòng ngự bị động, với việc lập chiến tuyến cố thủ tại một vùng đồng chiêm trũng, địa bàn chật hẹp, dễ dàng bị cô lập khi bị đối phương bao vây hoặc tấn công. Đây được coi là điển hình của lối đánh chuyến tuyến cố định.
GIỚI THIỆU VỀ QUẬN 1 – TP. HỒ CHÍ MINH
Quận 1 hay Quận Nhất là quận trung tâm của thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều cơ quan chính quyền, các Lãnh sự quán các nước và nhà cao tầng đều tập trung tại quận này (nhà cao tầng nhất Quận 1 và Thành phố Hồ Chí Minh là Bitexco Financial Tower). Quận 1 được xem là nơi sầm uất và có mức sống cao nhất của Thành phố về mọi phương diện. Đường Đồng Khởi và phố đi bộ Nguyễn Huệ là những khu phố thương mại chính của quận 1.
Quận 1 nằm ở vị trí trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm Quận Nhất và Quận Nhì (Sài Gòn cũ) được sáp nhập vào năm 1976. Những năm qua, Quận 1 đã có những bước chuyển biến lớn lao trong xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa xã hội, giữ vững và phát huy ưu thế của một trung tâm thành phố về: Hành chính và ngoại giao Quận 1 có 128 cơ quan ban ngành Thành phố, Trung ương trú đóng
Năm 2011, quận 1 thu ngân sách đạt 4103 tỷ đồng. Năm 2012, quận 1 thu ngân sách 4500 tỷ đồng.
Vị Trí Địa Lý Quận 1
- Sau năm 1975, Quận 1: gồm Quận 1 và Quận 2 cũ nhập lại.
- Bắc giáp Quận Bình Thạnh, Quận Phú Nhuận, lấy rạch Thị Nghè làm ranh giới và giáp Quận 3, lấy đường Hai Bà Trưng và đường Nguyễn Thị Minh Khai làm ranh giới.
- Đông giáp Quận 2, lấy sông Sài Gòn làm ranh giới.
- Tây giáp Quận 5, lấy đường Nguyễn Văn Cừ làm ranh giới.
- Nam giáp Quận 4, lấy rạch Bến Nghé làm ranh giới.
Diện Tích và Mật Độ Dân Cư Tại Quận 1
Tổng diện tích 7,7211 km 2, trong đó:
- Chiếm 0,35% diện tích thành phố.
- Đứng hàng thứ năm về diện tích trong số 12 quận nội thành.
- Diện tích sông rạch chiếm 8,1%.
- Diện tích xây dựng chiếm 57,27% diện tích quận và thuộc loại hàng đầu so với các quận, huyện khác.
Dân số: 204.899 người
- Mật độ: 26.182 người/km 2, đứng hàng thứ 4 về mật độ dân số so với các quận, huyện trong thành phố.
- Trong đó người Kinh chiếm 89,3% và người Hoa chiếm 10,2%, các dân tộc khác chiếm 0,5%.
Về giao thông tại Quận 1
- Nằm bên sông Sài Gòn, tiếp cận đầu mối giao thông đường thủy thông qua hai cảng: Sài Gòn và Khánh Hội, thuận lợi cho việc thông thương với các nước trên thế giới bằng đường biển.
- Hệ thống kinh rạch Bến Nghé, Thị Nghè thuận lợi về vận tải hàng hóa giữa trung tâm thành phố và đồng bằng sông Cửu Long.
Hệ thống giao thông đường bộ:
- Nối liền Chợ Lớn với trung tâm thành phố bằng đường Trần Hưng Đạo.
- Đi miền Đông, miền Tây bằng trục lộ chính là đường Nguyễn Thị Minh Khai.
- Đi Tây Ninh và Campuchia và nối với Quốc lộ 1 bằng trục lộ chính là đường Cách Mạng Tháng Tám.
- Đi sân bay Tân Sơn Nhất có đường chính là Nam Kỳ Khởi Nghĩa.
- Đi ga Sài Gòn bằng trục lộ chính là đường Cách Mạng Tháng Tám.
Phân chia hành chính của Quận 1
- Quận 1 với tổng diện tích là 7,7211 km2, dân số 204.899 người được tổ chức thành 10 phường: Bến Nghé, Bến Thành, Cô Giang, Cầu Kho, Cầu Ông Lãnh, Đa Kao, Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Thái Bình, Phạm Ngũ Lão, Tân Định.
- Trong đó, phường Bến Nghé là trung tâm của quận.
Về văn hóa tại Quận 1
- Phố Tây ở đường Bùi Viện
- Bảo tàng
- Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh tại 97 Phó Đức Chính, Nguyễn Thái Bình
- Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh số 2 Nguyễn Bỉnh Khiên, phường Bến Nghé.
- Bảo tàng Địa chất Thành phố Hồ Chí Minh số 2 Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh
- Thư viện tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Lý Tự Trọng
- Thảo cầm viên Sài Gòn
Quận 1 Nổi Tiếng Với Khu Du Lịch Thảo Cầm Viên
Lịch Sử Hình Thành
Thảo Cầm Viên Sài Gòn (tên gọi tắt: Thảo Cầm Viên, người dân quen gọi Sở thú) là công viên bảo tồn động vật – thực vật ở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Đây là vườn thú có tuổi thọ đứng hàng thứ 8 trên thế giới. Khuôn viên rộng lớn này hiện tọa lạc gần hạ lưu kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè với hai cổng vào nằm ở số 2B đường Nguyễn Bỉnh Khiêm và số 1 đường Nguyễn Thị Minh Khai phường Bến Nghé, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 23 tháng 3 năm 1864, Đề đốc De La Grandière ký nghị định cho phép xây dựng Vườn Bách Thảo tại Sài Gòn. Ngay sau đó, Louis Adolphe Germain, một bác sĩ thú y của quân đội Pháp, được giao nhiệm vụ mở mang 12 ha trên vùng đất hoang ở phía đông bắc rạch Thị Nghè (Pháp gọi là Arrroyo d’Avalanche, lấy theo tên chiến tàu chiến đã vào rạch Thị Nghè để tấn công thành Gia Định) để làm nơi nuôi thú và ươm cây. Tháng 3 năm sau (1865) thì một số chuồng trại đã xây xong.
Để biến nơi này thành nơi nuôi trồng các loài động vật, thực vật của toàn Đông Dương; vừa để trưng bày, vừa để cung cấp cây giống cho Muséum national d’histoire naturelle và trồng dọc theo các trục lộ ở Sài Gòn; viên Thống đốc Nam Kỳ nhận thấy cần phải có người giỏi chuyên môn hơn, nên đã mời J.B. Louis Pierre, người phụ trách chăm sóc thực vật của Vườn bách thảo Calcutta (Ấn Độ), sang làm giám đốc vào ngày 28 tháng 3 năm 1865.
Cuối năm 1865, Vườn Bách Thảo được nới rộng đến 20 ha. Sang năm 1924, khuôn viên sáp nhập thêm bên bờ bắc rạch Thị Nghè 13 ha nữa; một cây cầu đúc được bắc qua rạch để nối liền hai khu vực hoàn thành năm 1927. Và cũng trong năm đó, nhờ sự vận động của một viên chức Pháp tại Nhật, chính phủ Nhật đã cung cấp cho Vườn Bách Thảo khoảng 900 giống cây lạ.
Ngày 15 tháng 12 năm 1867, Thống đốc De La Grandière ban hành nghị định số 183 nhằm chấn chỉnh tổ chức và điều hành Vườn Bách Thảo, đặt nơi đây dưới sự quản lý của Hội đồng thành phố Sài Gòn, với một ngân khoản điều hành 21.000 quan Pháp/năm, do ngân sách thuộc địa cung cấp.
Ngày 17 tháng 2 năm 1869, phó đô đốc G. Ohier, quyền Thống đốc Nam Kỳ, ký nghị định số 33 thành lập Ủy ban thường trực do Philastre làm chủ tịch, để giám sát việc chi tiêu tại Thảo Cầm Viên. Vào thời điểm này, chi phí hàng năm của Vườn Bách Thảo đã được nâng lên 30.000 quan Pháp/năm. Cũng theo nghị định trên, đúng ngày Quốc khánh của Pháp 14 tháng 7 năm 1869, Vườn Bách Thảo mở cửa thường trực cho công chúng vào xem.
Bộ sưu tập động vật
Nhờ mối quan hệ hợp tác, trao đổi, mua bán với nhiều vườn động thực vật và các tổ chức khoa học quốc tế, bộ sưu tập động vật của Thảo Cầm Viên Sài Gòn ngày một thêm phong phú.
Cho nên bên cạnh hàng chục loài có vú, hàng chục giống chim, nhiều giống bò sát và giống có cánh các loại, như: khỉ, gấu ngựa, gấu chó, hổ Đông Dương, hổ Bengal, báo hoa mai, báo lửa, sư tử, tinh tinh, ngựa vằn, linh dương, hươu, nai, heo rừng, mang, nhím, rùa, rái cá, voi châu Á, tê giác trắng, cá sấu hoa cà, cá sấu nước ngọt, trăn đất, công…Nhiều loài động vật mới lạ đã xuất hiện tại Thảo cầm viên như: vượn cáo, bò tót, sói xám, sói đỏ, hà mã (Hippopotamus amphibius), hà mã lùn (Choeropsis liberiensis), báo đốm Mỹ (Panthera onca), đà điểu châu Phi (Struthio camelus), hồng hạc (Phoenicopterus ruper ruper), đười ươi (Pongo pygmaeue), hươu cao cổ (Giraffa camelopardalis)…
Theo quy hoạch động vật giai đoạn 2013-2015 do Công ty TNHH MTV Thảo Cầm Viên Sài Gòn lập và duyệt, số lượng hổ giữ ở Sài Gòn là 14 con (gồm 10 con hổ vàng và bốn con hổ trắng), trong khi số lượng hổ mà Thảo Cầm Viên đang sở hữu là 16 con (gồm 11 con hổ vàng và năm con hổ trắng).
Hiện nay, ở Thảo Cầm Viên Sài Gòn, ngoài những khu vực nuôi trồng cầm thú, cây cảnh và sưu tập phong lan, còn có khu dành cho trẻ em, cho người lớn vui chơi, giải trí…
Ngoài ra, trong Thảo Cầm Viên Sài Gòn còn có hai công trình kiến trúc đặc sắc khác, đó là Đền thờ vua Hùng dựng năm 1926 và Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh mở cửa từ năm 1929.
Gas Gia Đình Đường Đinh Công Tráng, Quận 1 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách gồm 10 phường. Quý Khách hàng thuộc khu vực Quận 1 có nhu cầu sử dụng gas Gia Đình vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
Lịch sử hình thành và phát triển của quận 1
Thời Pháp thuộc – Trước năm 1900
Sau khi chiếm được Sài Gòn vào năm 1859, người Pháp đã gấp rút quy hoạch xây dựng Sài Gòn thành một đô thị lớn nhiều chức năng (hành chính, quân sự, kinh tế, cảng, v.v.). Quyết định của đô đốc Charner ngày 11 tháng 4 năm 1861 đã ấn định địa phận Thành phố Sài Gòn (Ville de Saigon) và cho những ranh giới “một mặt là rạch Bến Nghé và rạch Thị Nghè, mặt kia là chính sông Sài Gòn và một đường rạch nối từ chùa Cây Mai đến những phòng tuyến cũ đồn Chí Hòa” thì Sài Gòn lúc này mới bắt đầu là một đơn vị hành chính riêng, diện tích 25 km².
Theo Nghị định của Thống đốc Nam Kỳ, ngày 12 tháng 4 năm 1861, chính quyền Pháp thành lập thành phố Sài Gòn, trên địa bàn một số thôn của hai tổng: Bình Trị Thượng và Bình Trị Trung thuộc huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Địa giới hành chính lúc đầu của thành phố Sài Gòn chỉ gồm một phần của hai quận: Quận 1 và Quận 3 hiện nay.
Với quyết định này, thành phố Sài Gòn lúc bấy giờ bao gồm cả hai khu Sài Gòn và Chợ Lớn. Năm 1862, dự án thiết kế thành phố Sài Gòn với 500.000 dân của Coffyn được phê duyệt. Đến năm 1864 người Pháp cho tách khu Chợ Lớn ra khỏi thành phố Sài Gòn.
Ngày 3 tháng 10 năm 1865, Thống đốc Nam Kỳ ban hành Nghị định về việc đặt ranh giới cho thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn, theo nghị định này diện tích thành phố Sài Gòn là 3 km2. Về phía Bắc, địa bàn thành phố Sài Gòn tiếp giáp với một phần con rạch Thị Nghè (đoạn từ cầu Bông cho tới cầu Thị Nghè) và đường Trần Quang Khải ngày nay. Về phía Đông tiếp giáp với sông Sài Gòn, phía Nam đến rạch Bến Nghé, cầu Ông Lãnh và một đoạn đường đi Chợ Lớn (Lý Tự Trọng), đường Thuận Kiều (Cách mạng Tháng Tám) rẽ vào đường Chasseloup Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai). Phía Tây thành phố tiếp giáp với hai con đường Chasseloup Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai) và đường Impériale (sau này đổi tên thành đường Nationale tức đường Hai Bà Trưng ngày nay).
Ngày 3 tháng 2 năm 1866, theo nghị định của Thống đốc Nam Kỳ, Khu thanh tra Sài Gòn (khác với thành phố Sài Gòn) được thành lập trên địa bàn hai huyện Bình Dương và Bình Long của phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Ngày 16 tháng 8 năm 1867, tỉnh Gia Định đổi tên thành tỉnh Sài Gòn. Lúc này đô thị Sài Gòn là lỵ sở của hạt Sài Gòn thuộc tỉnh Sài Gòn. Dân số Sài Gòn thời kỳ này có khoảng 10.735 người (1866). Trong đó người Âu có 555 người, người Ấn có 180 người, người Việt và người Hoa có độ 10.000 người. Ngày 5 tháng 6 năm 1871 khu thanh tra Sài Gòn đổi thành hạt (một số tài liệu gọi là “hạt tham biện”) Sài Gòn. Ngày 24 tháng 8 năm 1876, do dời lỵ sở hạt từ Sài Gòn về làng Bình Hòa, hạt Sài Gòn đổi tên thành hạt Bình Hòa. Ngày 16 tháng 12 năm 1885, hạt Bình Hòa đổi tên thành hạt Gia Định theo quyết định của Thống đốc Nam Kỳ. Ngày 1 tháng 1 năm 1900, hạt Gia Định lại đổi thành tỉnh Gia Định theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương.
Ngày 8 tháng 1 năm 1877, Tổng thống Pháp công nhận thành phố Sài Gòn là thành phố loại I, đứng đầu là viên Đốc lý do Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm. Qua thời gian, các vùng đất lân cận được sáp nhập dần vào thành phố. Năm 1884 diện tích thành phố là 4,06 km2, năm 1894 là 7,91 km2, năm 1906 là 13,17 km2, năm 1912 là 16,38 km2. Năm 1881 dân số thành phố Sài Gòn có 13.481 người, năm 1884 có 14.459 người[23], năm 1902 có 50.870 người, năm 1910 có 64.121 người, năm 1930 tăng lên 143.306 người.
Ngày 13 tháng 12 năm 1880, Thống đốc Nam Kỳ ký nghị định tách một số làng nằm kế cận thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn của hạt Bình Hòa và hạt Chợ Lớn, lập hạt Hai Mươi (Vingtième arrondissement ou 20e arrondissement). Hạt này do Nha Nội chánh trực tiếp cai trị, gồm hai tổng: Bình Chánh Thượng có 7 làng trực thuộc, Dương Minh có 9 làng trực thuộc.
Năm 1882, giữa thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn còn cách nhau một miền quê rộng lớn, gồm nhiều xã thôn như Phú Thạnh, Thái Bình, Nhơn Hòa, Tân Thành, Tân Hòa, Bình Yên, Tân Quang, Nhơn Giang, Tân Kiểng, Tân Châu, Hòa Bình… Đó là những vùng đất thuộc hai tổng Bình Chánh Thượng và tổng Dương Minh của hạt 20 mà Pháp lập ra theo Nghị định của Thống đốc Nam Kỳ ban hành ngày 13 tháng 12 năm 1880.
Ngày 12 tháng 1 năm 1888, hạt Hai Mươi bị giải thể. Tổng Dương Minh nhập vào hạt Chợ Lớn; tổng Bình Chánh Thượng bãi bỏ, các làng trực thuộc tổng này sáp nhập vào thành phố Sài Gòn và tổng Dương Hòa thượng của hạt Gia Định.
Tháng 9 năm 1889, thành phố Sài Gòn được chia thành hai quận cảnh sát (arrondissement policier): Quận 1 và Quận 2, đứng đầu mỗi quận cảnh sát là vị Quận trưởng cảnh sát (Commissaire).
Năm 1894, diện tích thành phố Sài Gòn được mở rộng. Ranh giới về phía Bắc được nới rộng ra đến hết rạch Thị Nghè, sáp nhập thêm các làng Phú Hòa, Nam Chơn, Hòa Mỹ(vùng Đa Kao ngày nay). Ranh giới thành phố về phía Tây bắt đầu từ cầu Kiệu theo rạch Thị Nghè chạy xuống tới đường Cách mạng Tháng Tám bao gồm các làng Tân Định và một phần làng Xuân Hòa (vùng Tân Định ngày nay), tăng thêm diện tích được 344 ha (năm 1894). Sài Gòn lúc này có diện tích 791 ha. Một năm sau, ngày 15 tháng 3 năm 1895 thành phố lại được nới rộng ra về phía Nam với việc sáp nhập một phần đất các làng Khánh Hội và làng Tam Hội cũ (rộng 182 ha) dọc bờ sông Sài Gòn làm cho Sài Gòn có diện tích 973 ha. Như vậy, về phía Bắc và phía Đông thành phố Sài Gòn được bao bọc bởi rạch Thị Nghè và sông Sài Gòn. Phía Nam tiếp giáp với đường Nguyễn Thái Học ngày nay rồi vòng xuống rạch Bến Nghé theo đường Pháo đài Nam (một phần đường Nguyễn Tất Thành) đến rạch Bàng. Phía Tây tiếp giáp với một phần rạch Thị Nghè và đường Cách mạng Tháng Tám. Lúc này thành phố Sài Gòn thuộc hạt Gia Định với dân số khoảng 37.593 người
Năm 1896, thành phố Sài Gòn có 3 hộ (quartier): Cầu Ông Lãnh, Đa Kao và Khánh Hội. Đứng đầu mỗi hộ là Hộ trưởng (Chef-quartier ou Chef du quartier). Từ ngày 30 tháng 8 năm 1905 số hộ trực thuộc là 6.
Thời Pháp thuộc – Sau năm 1900
Năm 1906, về phía Tây, diện tích thành phố được nới rộng thêm một phần đất của làng Tân Hòa và Phú Thạnh (vùng giữa Sài Gòn và Chợ Lớn) rộng 344 ha, Sài Gòn có diện tích là 1.317 ha. Địa giới thành phố Sài Gòn tiếp tục được mở rộng ra đến đường Eglise de Cầu Kho (Trần Đình Xu) và một phần đường Route Stratégique (Trần Phú), đoạn giữa quốc lộ 1 (Cách mạng Tháng Tám) và đường Nancy (Nguyễn Văn Cừ). Việc mở rộng này được thực hiện theo Nghị định của Thống đốc Nam Kỳ ban hành ngày 30 tháng 12 năm 1912.
Về phía Nam, ngày 21 tháng 8 năm 1907 địa bàn thành phố được nới rộng với việc sáp nhập thêm phần diện tích còn lại của các làng Khánh Hội và một phần của làng Chánh Hưng (rộng 447 ha làm cho Sài Gòn có diện tích là 1.764 ha). Ranh giới phía Nam kéo xuống đến rạch Ông Đội – rạch Bàng.
Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh hợp nhất thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn thành một đơn vị hành chính mới gọi là Khu (một số tài liệu gọi là “Địa phương”) Sài Gòn – Chợ Lớn (Région Saigon – Cholon ou Région de Saigon – Cholon). Khu Sài Gòn – Chợ Lớn chính thức hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1932, về hành chính khu chia thành mười tám hộ đánh số từ 1 đến 18; đứng đầu là Hộ trưởng. Về quản lý trị an, ngày 31 tháng 8 năm 1933 khu được chia thành năm quận cảnh sát: 1, 2, 3, 4 và 5. Khu vực thành phố Sài Gòn cũ có ba quận: 1, 2 và 3.
Ngày 10 tháng 5 năm 1948, Chính phủ lâm thời Cộng hòa Nam Kỳ ra nghị định số 2383 – MI/DAA về việc chia khu Sài Gòn – Chợ Lớn ra làm 6 quận. Quận 1 là địa bàn hộ 1 cũ; nay thuộc địa giới quận 1. Quận 2 là địa bàn hộ 2 cũ; nay thuộc địa giới quận 1.
Ngày 30 tháng 6 năm 1951, Thủ tướng chính quyền Quốc gia Việt Nam ký sắc lệnh số 311-cab/SG đổi tên Khu Sài Gòn – Chợ Lớn thành Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn. Lúc này, Quận 1 và quận 2 cùng thuộc Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn.
Thời Việt Nam Cộng hòa
Theo sắc lệnh số 143/NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn. Khi đó, quận 1 và quận 2 lại cùng thuộc Đô thành Sài Gòn.
Ngày 27 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 110-NV về việc phân chia sáu quận đang có thành tám quận mới: Nhứt, Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy và Tám (trừ ba quận: Nhứt, Nhì, Ba giữ nguyên, các quận còn lại đều đổi tên và thay đổi địa giới hành chính):
- Quận 1 (quận Nhứt): địa giới quận Nhứt cũ; có 04 phường: Bến Nghé, Hoà Bình, Tự Đức, Trần Quang Khải;
- Quận 2 (quận Nhì): địa giới quận Nhì cũ; có 04 phường: Chợ Bến Thành, Cầu Ông Lãnh, Cầu Kho, Nhà thờ Huyện Sĩ.
- Năm 1962, quận Nhì lập thêm 03 phường: Bùi Viện, Nguyễn Cảnh Chân và Nguyễn Cư Trinh. Như thế lúc này quận có 07 phường.
- Năm 1966, lập thêm 02 phường: An Khánh và Thủ Thiêm tại quận Nhứt, như thế quận này có 06 phường. Đầu năm 1967, tách hai phường: An Khánh và Thủ Thiêm lập quận 9 (quận Chín), quận Nhứt còn 04 phường.
- Năm 1972, đổi tên phường Chợ Bến Thành của quận Nhì thành phường Bến Thành.
Cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975:
- Quận 1 (quận Nhứt) gồm 04 phường: Bến Nghé, Hoà Bình, Tự Đức, Trần Quang Khải
- Quận 2 (quận Nhì) gồm 07 phường: Bến Thành, Bùi Viện, Cầu Ông Lãnh, Cầu Kho, Nhà thờ Huyện Sĩ, Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Cư Trinh.
Từ năm 1975 đến nay
Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn – Gia Định được thành lập. Lúc này, quận 1 (viết lại thành quận Nhất) và quận 2 (quận Nhì) cùng thuộc thành phố Sài Gòn – Gia Định cho đến tháng 5 năm 1976. Đồng thời, có những điều chỉnh do phường hiện hữu có diện tích quá nhỏ hoặc tương đối ít dân cư như: quận Nhất sáp nhập phường Hòa Bình vào phường Bến Nghé; quận Nhì sáp nhập phường Bến Thành vào phường Nhà thờ Huyện Sĩ, phường mới mang tên phường Huyện Sĩ. Như thế lúc này quận Nhất còn 03 phường, quận Nhì còn 06 phường.
Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh thành phố Sài Gòn – Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban Nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn – Gia Định). Theo đó, quận Nhất và quận Nhì cũ hợp nhất lại thành quận 1 cho đến ngày nay.[6] Lúc này, các phường cũ đều giải thể, lập các phường mới có diện tích, dân số nhỏ hơn và mang tên số. Quận 1 chia ra 25 phường, đánh số từ 1 đến 25 (địa bàn quận Nhất cũ có 10 phường từ 1-10, địa bàn quận Nhì cũ có 15 phường từ 11-25).
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 1 chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 1 trở thành quận trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 26 tháng 8 năm 1982, theo Quyết định số 147-HĐBT[7] của Hội đồng Bộ trưởng, quận 1 giải thể bốn phường: 2, 5, 9, 16 và 22, địa bàn các phường giải thể nhập vào các phường kế cận. Số phường trực thuộc quận 1 còn 20.
Ngày 21 tháng 12 năm 1988, quận 1 giải thể toàn bộ 20 phường mang tên số, thay thế bằng 10 phường mang tên chữ: Tân Định, Đa Kao, Bến Nghé, Bến Thành, Nguyễn Thái Bình, Cầu Ông Lãnh, Cô Giang, Cầu Kho, Nguyễn Cư Trinh và Phạm Ngũ Lão. Sự phân chia đơn vị hành chính này giữ ổn định cho đến nay.
Các công trình kiến trúc nổi bật
Hầu như các công trình kiến trúc nổi bật của thành phố đều tập trung tại đây: Nhà hát Lớn, Nhà thờ Đức Bà, Bưu điện trung tâm, Tòa nhà UBND thành phố, Hội trường Thống Nhất (dinh Độc Lập cũ, nơi ở và làm việc của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa). Đặc biệt, mới đây thành phố đã khánh thành tòa tháp Bitexco Financial Tower.
Đây cũng là quận tập trung phần lớn các tòa nhà cao ốc, các công viên lớn của thành phố này, như công viên Tao Đàn, Thảo cầm viên. Ngoài ra, ở đây cũng có Viện bảo tàng Thành phố, Đài phát thanh, Bưu điện Sài Gòn.
Trong tương lai không xa khi Khu đô thị mới Thủ Thiêm được xây dựng, sẽ có 5 cây cầu và một đường hầm qua sông Sài Gòn được hoàn tất nối quận này với trung tâm mới ở Quận 2.
Sau năm 1975, Quận 1: gồm Quận 1 và Quận 2 cũ nhập lại. Phía Bắc giáp Quận Bình Thạnh, Quận Phú Nhuận, lấy kênh Nhiêu Lộc-Thị Nghè làm ranh giới và giáp Quận 3 lấy đường Hai Bà Trưng và đường Nguyễn Thị Minh Khai làm ranh giới. Phía Đông giáp Quận 2, lấy sông Sài Gòn làm ranh giới. Phía Tây giáp Quận 5, lấy đường Nguyễn Văn Cừ làm ranh giới. Phía Nam giáp Quận 4, lấy kênh Bến Nghé làm ranh giới.
Gas Gia Đình Đường Đinh Công Tráng, Quận 1 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách gồm 10 phường thuộc Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh, phục vụ giao gas trên mọi nẻo đường của Quận 1. Quý Khách hàng có nhu vầu sử dụng gas Gia Đình thuộc khu vực Quận 1 vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
|
|
|
|