Gas Gia Đình Đường Lý Thường Kiệt Quận 10 chuyên giao lẻ gas Gia Đình dân dụng 12kg tại nhà cho hộ gia đình, chung cư, căn hộ, chung cư cao cấp và giao sỉ gas Gia Đình dân dụng 12kg – gas Gia Đình công nghiệp 45kg cho quán ăn, nhà hàng, khách sạn, quán nhậu, văn phòng công ty, căn tin, bếp ăn công nghiệp… tại Quận 10, Tp. Hồ Chí Minh. Khách hàng có nhu cầu đổi gas Gia Đình vui lòng gọi (028) 6683 6644
Gas Gia Đình Đường Lý Thường Kiệt Quận 10 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách
Gas Gia Đình Đường Lý Thường Kiệt Quận 10 cung cấp dịch vụ giao gas nhanh và chất lượng. Gas là một sản phẩm gắn liền với cuộc sống hàng ngày, được sử dụng rộng rãi trong hộ gia đình, nhà hàng, khách sạn, quán ăn, căn tin, chung cư, căn hộ cao cấp,… và được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau: nấu ăn, phục vụ kinh doanh, sử dụng trong xưởng sản xuất,… Cho nên, Đại lý Gas Gia Đình Đường Lý Thường Kiệt Quận 10 đã triển khai cung cấp dịch vụ Giao Gas Tận Nơi để phục vụ người tiêu dùng Nhanh Chóng và An Toàn Nhất.
Gas Gia Đình Đường Lý Thường Kiệt Quận 10 với dịch vụ giao gas chuyên nghiệp
Gas Gia Đình Đường Lý Thường Kiệt Quận 10 giao gas nhanh và an toàn
- Luôn chủ động giao gas nhanh nhất đến nhà khách hàng.
- Luôn giao gas Gia Đình chính hãng, có thương hiệu đảm bảo chất lượng.
- Luôn cân bình gas tại nhà khách hàng, đảm bảo đủ ký.
- Luôn kiểm tra rò rỉ gas mỗi khi giao gas để đảm bảo an toàn cho khách hàng.
Giao Gas Gia Đình Chính Hãng |
Gas Gia Đình Luôn Cân Gas Tại Nhà |
Gas Gia Đình Đường Gas Gia Đình Đường Lý Thường Kiệt Quận 10 luôn có hậu mãi chu đáo
- Có đội ngũ bảo trì định kỳ bếp gas, van gas, dây dẫn gas hoàn Toàn miễn phí.
- Sửa bếp gas miễn phí cho khách hàng trong suốt quá trình sử dụng.
- Được đội ngũ của đại lý gas Bình Minh giao tận nhà.
- Hệ Thống giao gas 24 quận huyện Tp.Hồ Chí Minh.
- Khách hàng có nhu cầu ký hợp đồng, sử dụng số lượng nhiều, vui lòng liên hệ tổng đài (028) 6683 6644 để có chính sách giá tốt nhất.
Những sản phẩm đại lý Gas Gia Đình Đường Lý Thường Kiệt Quận 10 bán nhiều nhất:
Gas Gia Đình Vàng |
Gas Gia Đình Xám |
Gas Bình Minh Vàng |
GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY GAS GIA ĐÌNH
- Tên đầy đủ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MTV KHÍ ĐỐT GIA ĐÌNH
- Địa chỉ Khu phố 4, Lã Xuân Oai, phường Tăng Nhơn Phú A, Quận 9, TP. HCM
- Điện thoại, Fax 8.54136338 – Fax: 8.5413634
- Website, Email Website: www.anphapetrol.com – Email:info.gds@anphapetrol.com
Giới thiệu sơ lược về doanh nghiệp
Công ty Cổ phần Tập Đoàn Dầu khí An Pha là một trong những công ty hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh khí hóa lỏng ở Việt Nam.
Là một trong 3 công ty chiếm lĩnh thị phần gas dân dụng lớn nhất cả nước (Sài Gòn Petro, An pha Petrol và Petrolimex).
Là một trong 4 công ty kinh doanh gas hàng đầu Việt Nam có hệ thống kho chứa đầu mối ở cả hai miền Nam Bắc (Petrolimex Gas, Petronas – Thăng Long Gas, Petro Vietnam Gas và An pha Petrol).
Là công ty gas duy nhất có hệ thống hoàn chỉnh từ khâu nhập khẩu, vận tải, tồn trữ đến phân phối bán buôn, bán lẻ trên địa bàn toàn quốc với qui mô lớn.
Công ty hiện sở hữu 2 thương hiệu gas có uy tín trên thị trường Nam Bắc:
- Thương hiệu An pha Petrol – là thương hiệu của Công ty mẹ và cũng là thương hiệu của cả Tập đoàn, chiếm 7% thị phần Miền Nam.
- Ở miền Bắc, thương hiệu Gia dinh Gas thuộc Công ty TNHH Khí đốt Gia Định (Hà Nội) chiếm khoảng 10% thị phần, nằm trong Top 5 công ty có thị phần lớn nhất miền Bắc.
- Ở miền Nam, thương hiệu Gia dinh Gas thuộc Công ty TNHH MTV Khí Đốt Gia Đình (Quận 9, TPHCM) chiếm 5% thị phần, nằm trong Top 10 công ty có thị phần lớn nhất miền Nam.
An pha Petrol nhanh chóng có được vị thế đó một phần rất lớn là do thiết lập được mối quan hệ hợp tác bền vững và tin cậy với những tên tuổi lớn trong ngành từ Bắc đến Nam như: Petro Vietnam, Petrolimex, Sài Gòn Petro, Thăng Long Gas, VTGas …
Thời gian gần đây với sự phát triển mạnh mẽ và tiềm năng to lớn, An pha Petrol đã thu hút được sự quan tâm của các tổ chức quốc tế và trong nước.
Đó là sự đầu tư của các tập đoàn nước ngoài và ngân hàng quốc doanh hàng đầu trong nước:
- Quỹ phát triển Việt Nhật (Japan-Vietnam Growth Fund L.P.): do Tập đoàn Sojitz, Quỹ đầu tư Châu Á và một số ngân hàng Nhật Bản sáng lập vào tháng 9/2006. để đầu tư vào Việt Nam.
- Tập đoàn Sojitz: là một tập đoàn lớn của Nhật, nổi tiếng trên lĩnh vực cung ứng và xuất nhập khẩu LPG trên toàn thế giới.
- Công ty chứng khoán SK (SK Securities) thuộc tập đoàn SK của Hàn Quốc.
Để biết thông tin chi tiết về gas Gia Đình, giá bán các loại gas Gia Đình dân dụng 12kg, gas Gia Đình công nghiệp 45kg, chính sách giao gas, chính sách hậu mãi. Quý khách vui lòng liên hệ qua số (028) 6683 6644
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN GAS GIA ĐÌNH
Tiền thân của Tập đoàn Dầu khí An pha Petrol là Công ty TNHH DV – TM Gia Đình (nay là Công ty TNHH MTV Khí Đốt Gia Đình).
Tháng 4/1999, Công ty TNHH DV – TM Gia Đình được thành lập với chức năng chuyên kinh doanh gas dân dụng và gas công nghiệp.
Tháng 4/2004 thị trường có nhiều biến động, do nhu cầu phát triển, Công ty cổ phần Dầu khí An Pha S.G (nay là Công ty Cổ phần Tập Đoàn Dầu khí An Pha) được thành lập, với mục đích đầu tư và quản lý hệ thống cơ sở hạ tầng đầu vào cũng như hệ thống kho dự trữ đầu mối và vận tải LPG cho đối tác chiến lược và các công ty kinh doanh Gas dân dụng thương hiệu Gia dinh Gas.
Tháng 4/2005 thành lập Công ty Cổ phần Dầu khí An Pha tại Hà Nội nhằm quản lý khai thác kho đầu mối các tỉnh phía Bắc.
Tháng 03/2007 mua lại phần vốn góp và sở hữu 99% Công ty TNHH DV – TM Gia Đình và thương hiệu Gia dinh Gas( nay là Công ty TNHH MTV Khí Đốt Gia Đình).
Tháng 3/2007 trở thành Công ty đại chúng.
Tháng 4/2007 mua lại phần góp vốn và sở hữu 51% Công ty MTV Dầu Khí An Pha Tây Ninh (tức Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại L.P.G Minh Thông) và thương hiệu JP GAS
Đồng thời thành lập Công ty cổ phần Đầu tư Thủy điện An Pha ở Sơn La để thực hiện các dự án thủy điện trọng điểm ở Sơn La, Cao Bằng với tỷ lệ sở hữu 55%.
Tháng 5/2007 mua lại phần góp vốn và sở hữu 60% Công ty TNHH Khí Đốt Gia Định (Hà Nội)
Tháng 6/2007 thành lập Công ty Cổ Phần Dầu khí An Pha Tây Nguyên (Đăklăk) để mua lại DNTN Hoàng Minh và thương hiệu Dakgas , tỷ lệ sở hữu là 55%.
Tháng 9/2007 ký kết hợp đồng đầu tư và hợp tác chiến lược với tập đoàn dầu khí quốc tế đến từ Nhật Bản – Sojitz Petroleum Co. Pte. Ltd và Quỹ đầu tư phát triển Việt Nhật thông qua hợp đồng bán 5,5% cổ phần.
Tháng 10/2007 ký kết hợp đồng đầu tư bán 10% cổ phần cho Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam. Trong thời gian này Công ty lại tiếp tục ký kết hợp đồng đầu tư chiến lược bán 8% cổ phần cho Công ty chứng khoán SK (SK Securities).
Để tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh, Công ty mẹ đã quyết định bán lại một số công ty con, tập trung vào các mũi hoạt động chủ lực nhằm thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ những lợi thế chính của Tập đoàn :
Tháng 6/2009 : Bán lại Công ty cổ phần Đầu tư Thủy điện An Pha.
Tháng 7/2011 : Bán lại Công ty MTV Dầu Khí An Pha Tây Ninh.
Tháng 7/2011 : Bán lại Công ty Cổ Phần Dầu khí An Pha Tây Nguyên.
Kể từ khi thành lập đến nay, Anpha Petrol luôn chú trọng đầu tư phát triển, đưa Tập đoàn ngày càng lớn mạnh và hiện nay là Tập đoàn Dầu khí tư nhân lớn mạnh nhất ở Việt Nam.
Anpha Petrol cũng tích cực tham gia nhiều các hoạt động xã hội, là Nhà tài trợ cho các Giải bóng đá trong nước. Được nhận nhiều Giấy khen, Bằng khen của Chính quyền và các Bộ, ngành.
Lý Thường Kiệt là nhà quân sự, nhà chính trị thời nhà Lý nước Đại Việt
Lý Thường Kiệt (1019 – 1105) là nhà quân sự, nhà chính trị thời nhà Lý nước Đại Việt, làm quan qua 3 triều vua Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông. Ông nổi bật với việc chinh phạt Chiêm Thành (1069), đánh phá 3 châu Khâm, Ung, Liêm nước Tống (1075-1076), rồi đánh bại cuộc xâm lược Đại Việt của quân Tống do Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy (1077). Ông đã làm tể tướng hai lần dưới thời Lý Nhân Tông và là một trong 3 người phụ chính khi vua này còn nhỏ tuổi. Năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể và Du lịch liệt ông vào trong những 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam.
Thân thế
Thông tin phổ biến hiện nay, dựa theo “Phả hệ họ Ngô Việt Nam” (đến nay vẫn không rõ nguồn gốc uy tín của phả hệ này[cần dẫn nguồn]), nguyên danh của ông là Ngô Tuấn, biểu tự Thường Kiệt, sau được ban quốc tính nên có tên là Lý Thường Kiệt. Ông là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ, cháu của Ngô Ích Vệ, chắt của sứ quân Ngô Xương Xí và cháu 5 đời của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập – hoàng tử trưởng của Ngô Quyền, người phường Thái Hòa, thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay).
Tuy vậy, bia “An Hoạch Báo Ân tự bi” (lập năm 1100) và bia “Cồ Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi minh tính tự” (lập năm 1159) thì Lý Thường Kiệt vốn họ Quách, tên Tuấn, biểu tự Thường Kiệt, quê ông là làng An Xá, huyện Quảng Đức (Cơ Xá, huyện Gia Lâm ngày nay). Cha ông làm Thái úy đời Lý Thái Tông, có hai tên khác nhau, theo Đại Việt sử lược chép là Thái úy Quách Thạch Ích, còn An Nam chí lược thì chép là Thái úy Quách Thịnh Dật, quê ở huyện Câu Lậu, Tế Giang (nay thuộc huyện Mỹ Văn, Hưng Yên), được Hoàng đế ban quốc tính, vì mới có tên là Lý Thường Kiệt. Theo văn bia của Thái úy đời Lý Anh Tông là Đỗ Anh Vũ, thì cha của Anh Vũ gọi Lý Thường Kiệt là cậu ruột. Sử sách Trung Quốc thường chép tên ông là Lý Thường Cát hoặc Lý Thượng Cát. Trong nhà ông có một người em trên tên Lý Thường Hiến, có lẽ như anh, Thường Hiến là biểu tự chứ không phải tên thực, thông lệ từ xưa thì biểu tự có ý nghĩa tương đồng hoặc trái nghĩa với tên thực, và dùng để gọi bên ngoài như một hiểu hiện của sự lịch sự, chỉ có trong nhà mới gọi tên thực.
Theo nhận xét của Đại Việt sử ký toàn thư, nhà của ông nối đời làm quan, trú ở phường Thái Hòa của thành Thăng Long. Từ nhỏ Lý Thường Kiệt đã tỏ ra người có chí hướng và nghị lực, chăm học tập, rèn luyện cả văn lẫn võ, từng nghiên cứu về binh pháp.
Dưới triều Thái Tông và Thánh Tông
Năm 1041, Lý Thường Kiệt còn ít tuổi, vì vẻ mặt tươi đẹp được sung làm Hoàng môn chi hậu – chức thái giám theo hầu Lý Thái Tông.
Trong mười hai năm làm nội thị trong triều, danh tiếng của Lý Thường Kiệt ngày càng nổi. Năm 1053, ông được thăng dần đến chức Nội thị sảnh đô tri khi 35 tuổi.
Năm 1054, Thái tử Lý Nhật Tôn kế vị, sử gọi là Lý Thánh Tông. Thánh Tông phong ông chức Bổng hành quân hiệu uý. Ông thường ngày ở cạnh vua, thường can gián. Vì có công lao, ông được thăng làm Kiểm hiệu thái bảo.
Năm 1061, người Mường ở biên giới quấy rối. Lý Thánh Tông sai ông làm Kinh phỏng sứ vào thanh tra vùng Thanh Hóa, Nghệ An, được toàn quyền hành sự. Ông phủ dụ dân chúng, lấy được lòng người. Tất cả năm châu 6 huyện, 3 nguồn, 24 động đều quy phục.
Tháng hai năm 1069, ông theo vua Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành. Lý Thường Kiệt làm tiên phong đi đầu, truy bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Cuối cùng Chế Củ phải chịu hàng, dâng 3 châu để được tha về nước.
Phụ chính Lý Nhân Tông
Ủng hộ Nguyên phi Ỷ Lan
Năm 1072, Lý Thánh Tông qua đời. Thái tử Càn Đức mới bảy tuổi lên ngôi, sử gọi là Lý Nhân Tông. Thái sư Lý Đạo Thành tôn Hoàng hậu Dương thị làm Thượng Dương hoàng thái hậu, buông rèm cùng nghe chính sự. Mẹ đẻ của Nhân Tông là Thái phi Ỷ Lan không được dự vào việc triều đình, bèn dựa vào Lý Thường Kiệt để nắm lấy quyền nhiếp chính. Lý Thường Kiệt khi đó làm Thái uý, chức vụ ở dưới Lý Đạo Thành.
Tháng 6, năm 1072, tức là 4 tháng sau khi Nhân Tông lên ngôi, Nhân Tông ra chỉ phế truất Thượng Dương thái hậu, giam Thái hậu cùng bảy mươi hai thị nữ trong lãnh cung và bắt chôn theo Thánh Tông. Có thể thấy, ngoài tác động của Ỷ Lan ở bên trong với Nhân Tông, có sự vai trò của võ tướng Lý Thường Kiệt.
Sau đó Lý Đạo Thành bị giáng chức làm tả gián nghị đại phu, ra trấn thủ Nghệ An. Ỷ Lan được tôn làm Hoàng thái hậu, buông rèm nhiếp chính, điều khiển chính sự. Theo ý kiến của Hoàng Xuân Hãn, việc xử chết Dương thái hậu và giáng chức Đạo Thành, một mình Ỷ Lan không thể thực hiện mà có vai trò của Lý Thường Kiệt, người nắm quân đội trong tay, trong khi Lý Đạo Thành vốn là quan văn và tuổi tác đã cao.
Từ đó Lý Thường Kiệt giữ vai trò phụ chính trong triều đình Đại Việt.
Chiến tranh với Tống
Năm 1075, Vương An Thạch cầm quyền chính nhà Tống, tâu với vua Tống là Đại Việt bị Chiêm Thành đánh phá, quân còn sót lại không đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi, và Lưu Di làm tri Quế Châu ngầm dấy binh người Man động, đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu huyện không được mua bán với Đại Việt.
Thái hậu Ỷ Lan biết tin, sai ông và Tôn Đản đem hơn 100.000 quân đi đánh. Quân bộ gồm 60.000 người do các tướng Tôn Đản, Thân Cảnh Phúc, Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Vi Thủ An chỉ huy, tổng chỉ huy là Tôn Đản. Bộ binh tập trung ngay ở các châu Quảng Nguyên, Môn (Đông Khê), Quang Lang, Tô Mậu rồi tràn sang đánh các trại Vĩnh Bình, Thái Bình, Hoành Sơn, châu Tây Bình, Lộc Châu. Một cánh quân khác đóng gần biên giới Khâm châu cũng kéo tới đánh các trại Như Hồng, Như Tích và Đề Trạo, “quân ta tới đâu như vào nhà trống không người”.
Lý Thường Kiệt chỉ huy 40.000 quân thủy cùng voi chiến đi đường biển từ châu Vĩnh An (Quảng Ninh) đổ bộ lên đánh các châu Khâm, Liêm; Tông Đản vây châu Ung. Ngày 30 tháng 12 năm 1075, quân Đại Việt tiến chiếm thành Khâm Châu, bắt toàn bộ quan quân nhà Tống mà không phải giao chiến một trận nào. Ba ngày sau, 2 tháng 1 năm 1076, Liêm Châu cũng thất thủ.
Khi được tin hai châu Khâm, Liêm đã mất, nhà Tống rất hoang mang, lo ngại, các tướng ở địa phương bối rối. Ty kinh lược Quảng Nam tây lộ vội vã xin viện binh: 20.000 quân, 3.000 con ngựa, xin thêm khí giới, đồ dùng và một tháng lương, và xin được điều động các dân khê động, tất cả lấy dọc đường từ Kinh châu đến Quảng Tây. Để điều khiển quân được mau chóng, ty ấy cũng xin dời đến thành Tượng, gần phía bắc Ung Châu.
Trong lúc bối rối, triều đình Tống đối phó rất lúng túng. Vua Tống cách chức Lưu Di và sai Thạch Giám thay coi Quế Châu và làm kinh lược sứ Quảng Tây.
Trên các mặt trận, quân Đại Việt hoàn toàn làm chủ. Lý Thường Kiệt cho đạo quân ở Khâm và Liêm Châu tiến lên phía Bắc. Đạo đổ bộ ở Khâm Châu kéo thẳng lên Ung Châu. Đường thẳng dài chừng 120 cây số, nhưng phải qua dãy núi Thập Vạn. Còn đạo đổ bộ ở Liêm Châu tiến sang phía đông bắc, chiếm lấy Bạch Châu, dường như để chặn quân tiếp viện của Tống từ phía đông tới. Hẹn ngày 18 tháng 1 năm 1076, hai đạo quân sẽ cùng hội lại vây chặt lấy Ung Châu.
Ung Châu là một thành lũy kiên cố, do tướng Tô Giám cùng với 2.800 quân cương quyết cố thủ.
Đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu. Lý Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay thuộc thành phố Nam Ninh, khu tự trị Quảng Tây) phá tan được, chém Trương Thủ Tiết tại trận.
Tri châu Ung là Tô Giám cố thủ không hàng. Quân Đại Việt đánh đến hơn 40 ngày. Sau cùng quân Việt dùng hỏa công, bắn các chất cháy như nhựa thông vào thành, trong thành thiếu nước, không thể chữa được cháy. Cuối cùng quân Đại Việt bắt dân Tống chồng bao đất cao đến hàng trượng để họ trèo lên thành. Ngày thứ 42, thành bị hạ, tướng chỉ huy Tô Giám tự thiêu để khỏi rơi vào tay quân Đại Việt. Người trong thành không chịu hàng, nên bị giết hết hơn 58.000 người, cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn 100.000, tuy nhiên quân Đại Việt cũng tổn thất đến 10.000 người và nhiều voi chiến.
Lý Thường Kiệt làm cỏ xong thành Ung, lại lấy đá lấp sông ngăn cứu viện rồi đem quân lên phía Bắc lấy Tân Châu. Viên quan coi Tân Châu, nghe thấy quân Đại Việt kéo gần đến thành, liền bỏ thành chạy trốn. Mục tiêu hoàn thành, Lý Thường Kiệt cho rút quân về.
Lý Thường Kiệt bắt sống người ba châu ấy đem về nước. Nhà Lý cho những người phương bắc đó vào khai phá vùng Hoan – Ái (Thanh – Nghệ).
Phòng thủ sông Như Nguyệt
Bài chi tiết: Trận Như Nguyệt và Phòng tuyến sông Như Nguyệt
Do tiền đồn ở Ung châu là căn cứ tập trung quân để nam tiến bị phá tan, nhà Tống phải điều động thêm nhân lực và lương thảo để thực hiện chiến tranh với Đại Việt.
Tháng 3 năm 1076, nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hẹn với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn Đại Việt, nhưng quân Chiêm Thành và Chân Lạp không dám tiến vào Đại Việt. Quân Tống viễn chinh lên đến 10 vạn quân, một vạn ngựa và hai mươi vạn dân phu, khí thế rất mạnh mẽ, nhất là kỵ binh Tống, nhưng quân Tống muốn phát huy kỵ binh thì phải làm sao qua khỏi vùng hiểm trở, tới chỗ bằng, thì ngựa mới tung hoành được.
Tuyến phòng thủ của quân Đại Việt, Lý Thường Kiệt dựa vào sông núi, các đèo hiểm trở, các sông rộng và sâu. Từ trại Vĩnh Bình vào châu Lạng, phải qua dãy núi rậm, có đèo Quyết Lý, ở trên đường từ tỉnh Lạng Sơn đến Đông Mô ngày nay, vào khoảng làng Nhân Lý, ở phía bắc châu Ôn. Rồi lại phải qua dãy núi lèn (đá không phá đất), đá đứng như tường, ở giữa có đường đi rất hiểm: đó là ải Giáp Khẩu, tức là ải Chi Lăng, ở phía bắc huyện Hữu Lũng thuộc Lạng Sơn ngày nay. Về đường thủy, để chặn địch qua sông, quân Nam chỉ cần đóng thuyền ở bến Lục Đầu thì đi đường nào cũng rất tiện và chóng.
Các tướng lĩnh thuộc Man Động như: Nùng Quang Lãm, Nùng Thịnh Đức coi ải Hà Nội, Hoàng Kim Mãn và Sầm Khánh Tân giữ châu Môn, Vi Thủ An giữ châu Tô Mậu, Lưu Kỷ coi Quảng Nguyên khi quân Tống sang đã đầu hàng. Duy có phò mã Thân Cảnh Phúc giữ châu Quang Lang (Lạng Sơn) không những không chịu hàng mà còn rút vào rừng đánh du kích, giết rất nhiều quân Tống. Những tướng lĩnh này trước kéo quân qua đất Tống, đánh rất giỏi. Nhưng sau quân Tống tràn sang đánh báo thù, lúc đầu họ cự chiến, sau vì thất trận và vì sự dụ dỗ, nên đã đầu hàng, thậm chí như Hoàng Kim Mẫn còn chỉ đường bày mưu cho Tống. Sách Quế Hải Chí kể: “Viên tri châu Quang Lang là phò mã, bị thua, bèn trốn vào trong rừng Động Giáp, rồi du kích hậu phương quân Tống. Rình lúc bất ngờ đánh úp quân địch làm chúng rất sợ hãi”.
Quân Tống tràn xuống, theo đường tắt qua dãy núi Đâu Đỉnh, tới phía tây bờ sông Phú Lương; trong khi đó, một cánh quân tách ra, vòng sang phía đông đánh bọc hậu quân Nam ở Giáp Khẩu (Chi Lăng) và thẳng tới sông Cầu.
Hoàng đế Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, lập chiến lũy sông Như Nguyệt để chặn quân Tống. Sông Cầu từ địa phận Cao Bằng chảy đến Lục Đầu, hợp với sông Bạch Đằng. Từ Lục Đầu ra đến biển, là một cái hào tự nhiên sâu và rộng, che chở cho đồng bằng nước Việt để chống lại tất cả mọi cuộc ngoại xâm đường bộ từ Lưỡng Quảng kéo vào. Đối với đường sá từ châu Ung tới Thăng Long, thì sông Bạch Đằng không can hệ, vì đã có sông Lục Đầu, là cái hào ngăn trước rồi. Trái lại, sông Cầu rất quan trọng. Thượng lưu sông Cầu qua vùng rừng núi rất hiểm. Chỉ có khoảng từ Thái Nguyên trở xuống là có thể qua dễ dàng, và qua rồi thì có đường xuôi. Nhưng sau sông, ở về phía tây có dãy núi Tam Đảo, là một cái thành không thể vượt. Chỉ có khoảng từ huyện Đa Phúc đến Lục Đầu là phải phòng ngự bờ nam mà thôi. Trong khoảng ấy, lại chỉ khúc giữa, từ đò Như Nguyệt đến chân núi Nham Biền, là có bến, có đường qua sông để tiến xuống miền nam một cách dễ dàng thẳng và gần.
Lý Thường Kiệt đem chủ lực chặn con đường từ trại Vĩnh Bình đến sông Nam Định (sông Cầu) bằng cách đặt những doanh đồn và phục binh ở hai ải tiếp nhau: ải Quyết Lý ở phía bắc châu Quang Lang và ải Giáp Khẩu (Chi Lăng) ở phía nam châu ấy. Nếu hai phòng tuyến ấy bị tan, thì phải cố thủ ở phòng tuyến thứ ba, tức là nam ngạn sông Nam Định. Để cản quân Tống qua sông, Lý Thường Kiệt sai đắp đê nam ngạc cao như bức thành. Trên thành, đóng tre làm giậu, dày đến mấy từng. Thành đất lũy tre, nối với dãy núi Tam Đảo, đã đổi thế sông Nam Định và bờ nam ngạn ra một dãy thành hào, che chở cả vùng đồng bằng Giao Chỉ. Thành hào ấy dài gần trăm cây số, khó vượt qua và nhưng lại dễ phòng thủ hơn là một thành lẻ như thành Thăng Long.
Cùng lúc đó thuỷ binh Tống do Hòa Mân và Dương Tùng Tiểu chỉ huy đã bị thủy quân Đại Việt do Lý Kế Nguyên điều động, chặn đánh ngoài khơi lối vào Vĩnh An. Quân Tống có kỵ binh mở đường tiến công quyết liệt, có lúc đã chọc thủng chiến tuyến quân Đại Việt tràn qua sông Như Nguyệt, nhưng quân Nam đều kịp thời phản kích, đẩy lùi quân Tống. Lý Thường Kiệt còn dùng chiến tranh tâm lý để khích lệ tinh thần quân Nam chiến đấu. “Đang đêm, nghe tiếng vang trong đền đọc bài thơ ấy, quân ta đều phấn khởi. Quân Tống sợ, táng đảm, không đánh đã tan”.
Quân Tống tiến không được, thoái không xong, hao mòn vì chiến sự và khí hậu, không được thủy quân tiếp viện. Quân Đại Việt lại tập kích, doanh trại của phó tướng Triệu Tiết bị phá, dù quân Tống cũng giết được hai tướng Đại Việt là Hoàng Chân và Chiêu Văn. Quân Tống 10 phần chết đến 6, 7 phần.
Lý Thường Kiệt biết tình thế quân Tống đã lâm vào thế bí, mà người Việt bị chiến tranh liên miên cũng nhiều tổn thất, nên sai sứ sang xin “nghị hoà” để quân Tống rút về. Quách Quỳ vội chấp nhận giảng hòa và rút quân. Sách Việt Sử kỷ yếu của Trần Xuân Sinh dẫn cổ sử nói về nội tình của nhà Tống về sự kiện này: Triều thần nhà Tống cho rằng “Cũng may mà lúc đó địch lại xin giảng hoà, không thì chưa biết làm thế nào”.
Hoàng Xuân Hãn, tác giả sách Lý Thường Kiệt đã bình phẩm: “Giả như các mặt trận đầu có quân trung châu, thì thế thủ xếp theo trận đồ của Lý Thường Kiệt đã dàn ra, có lẽ đánh bại Tống từ đầu.
Chiến tranh với Chiêm Thành
Nhà Lý màu vàng, Chiêm Thành màu xanh lá cây, Nhà Tống màu xám, AngKor màu tím.
Dưới thời Lý Thánh Tông, Lý Thường Kiệt đã tham gia cuộc tấn công Chiêm Thành năm 1069. Ông cầm quân truy đuổi và bắt được vua Chiêm là Chế Củ (Rudravarman 4).
Dưới thời Lý Nhân Tông, ngoài việc cầm quân đánh Tống, ông còn tiến công Chiêm Thành vào năm 1075 nhưng không thu được thắng lợi.
Những năm cuối đời, ông còn cầm quân đi đánh Lý Giác ở Diễn Châu (1103). Năm 1104, vua Chiêm Thành là Chế Ma Na (Jaya Indravarman 2, 1086-1113) đem quân đánh và lấy lại 3 châu Địa Lý v.v. mà vua Chế Củ đã cắt cho Đại Việt. Đến đây, Lý Thường Kiệt một lần nữa kéo quân đi đánh, phá tan quân Chiêm, Chế Ma Na lại nộp đất ấy cho Đại Việt.
Khai quốc công
Vì có công, ông được ban “quốc tính”, mang họ vua (do đó có họ tên là Lý Thường Kiệt), và phong làm Phụ quốc thái phó, dao thụ chư trấn tiết độ, đồng trung thư môn hạ, thượng trụ quốc, thiên tử nghĩa đệ, phụ quốc thượng tướng quân, tước Khai quốc công. Sau lại có công nữa, ông được phong làm Thái úy. Ông là vị thái giám đầu tiên của nền quân chủ Việt Nam có công đức và đóng góp cho đất nước.
Cuối đời
Non sông sạch bóng quân thù. Lúc này vua mới 12 tuổi. Lý Thường Kiệt lại tiếp tục gánh trách nhiệm lớn của triều đình trong công cuộc xây dựng đất nước, chăm lo đời sống nhân dân. Ông đã cho tu bổ đê điều, đường sá, đình chùa hư hỏng trong chiến tranh và tiến hành nhiều biện pháp nhằm cải tổ bộ máy hành chính trong toàn quốc.
Năm 1082, ông thôi chức Tể tướng và được cử về trị nhậm trấn Thanh Hóa. Làm việc ở đây suốt 19 năm trời, đến năm 1101 thì vua Lý Nhân Tông lại mời ông trở lại về triều giữ lại chức Tể tướng. Lúc này ông đã 82 tuổi.
Già rồi, nhưng ông vẫn tình nguyện cầm quân đi đánh giặc Lý Giác ở Diễn Châu (năm 1103), dẹp giặc Chiêm Thành quấy nhiễu ở Bố Chính (năm 1104). Ông còn tổ chức lại quân đội, duyệt đổi lại các đơn vị từ cấm binh đến dân quân.
Tháng 6 năm Ất Dậu (1105), Thái úy Lý Thường Kiệt mất, thọ 86 tuổi. Lý Nhân Tông ban cho ông chức Nhập nội điện đô tri kiểm hiệu thái úy bình chương quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công, thực ấp một vạn hộ, cho người em là Lý Thường Hiến được kế phong tước hầu.
GIỚI THIỆU VỀ QUẬN 10 – TP. HỒ CHÍ MINH
Quận 10 là một quận nội thành trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 10 có địa hình tương đối bằng phẳng, cao trên 2 mét so với mực nước biển. Được thành lập năm 1969, đây là quận có nhiều địa điểm tham quan, di tích lịch sử, văn hoá, tôn giáo… nổi tiếng.
Vị trí địa lý Quận 10
Quận 10 là một trong những quận nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu kinh tế, văn hóa xã hội với các quận trung tâm và ngoại thành, là cơ hội để thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của quận. Địa bàn Quận 10, có giáp ranh như sau:
- Phía Bắc giáp Quận Tân Bình, giới hạn bởi đường Bắc Hải
- Phía Nam giáp Quận 5, giới hạn bởi đường Hùng Vương và đường Nguyễn Chí Thanh
- Phía Đông giáp Quận 3, giới hạn bởi đường Cách mạng tháng Tám, Điện Biên Phủ và đường Lý Thái Tổ
- Phía Tây giáp Quận 11, giới hạn bởi đường Lý Thường Kiệt
Tổ chức hành chính tại Quận 10
- Quận được chia làm 15 phường: Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7, Phường 8, Phường 9, Phường 10, Phường 11, Phường 12, Phường 13, Phường 14, Phường 15.
- Trong đó, phường 14 là trung tâm của quận.
Quận 10 với tiềm năng kinh tế lớn
- Quận 10 là một trong những quận trung tâm của Thành phố Hồ Chí Minh và là một trọng điểm giao dịch thương mại của thành phố. Ngành thương mại – dịch vụ có tốc độ phát triển nhanh, với nhiều loại hình thương mại – dịch vụ cao cấp và đa dạng tạo được sự thu hút đầu tư của các doanh nghiệp tham gia đầu tư phát triển.
- Tổng số vốn đầu tư của các công ty, doanh nghiệp tư nhân và các cơ sở cá thể đạt gần 700 tỷ đồng; giá trị thương mại chiếm tỷ lệ khá cao, sản lượng kinh tế thương mại quốc doanh chiếm từ 60 – 80%.
- Tốc độ tăng trưởng trên lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp bình quân hằng năm luôn vượt chỉ tiêu kế hoạch 14,58%, trong đó khu vực kinh tế quốc doanh tăng bình quân 16,94%, khu vực ngoài quốc doanh tăng bình quân 13,67%.
- Tốc độ tăng trưởng thương mại – dịch vụ hàng năm tăng bình quân 16,98% – trong đó, các công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân và thương nghiệp – dịch vụ tư nhân, cá thể có tỷ lệ tăng khá cao, chiếm tỷ trọng lớn trên tổng doanh thu hằng năm.
- Xuất khẩu chủ yếu là các mặt hàng điện tử, hoá mỹ phẩm, may mặc, nông hải sản, chế biến cao su. Nhập khẩu chủ yếu là các ngành hàng nguyên liệu phục vụ sản xuất tuy vậy hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng.
Về văn hóa
- Phong trào xây dựng Nếp sống văn minh – Gia đình văn hoá, “Người tốt việc tốt”, “Người con hiếu thảo”, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” ở khu dân cư, xây dựng Công sở văn minh – sạch đẹp – an toàn,…
- Năm 1995, Quận 10 chỉ có 5/71 khu dân cư đạt danh hiệu xuất sắc, 42 khu dân cư tiên tiến, 42 tổ dân phố tự quản, 1.339 gương người tốt việc tốt thì đến năm 2004 đã có 29/75 khu phố đạt danh hiệu khu phố văn hoá, 51 khu dân cư xuất sắc, 5 khu dân cư tiên tiến, 991 tổ tự quản, 41.656 hộ đạt chuẩn gia đình văn hoá, 2.170 gương người tốt việc tốt biểu dương các cấp. Ngoài ra đã có 4 phường (3, 4, 5, 8) đăng ký xây dựng phường đạt chuẩn Phường văn hoá, 36 đơn vị (chợ, bệnh viện, trường học) đăng ký xây dựng đơn vị văn hoá theo tiêu chí của Thành phố.
Y tế – Giáo dục
- Quận 10, nơi tập trung các bệnh viện lớn như: Bệnh viện Nhi Đồng 1, Bệnh viện Nhân dân 115…
- Quận 10 cũng là nơi tập trung khá nhiều các trường học như: Đại học Bách khoa, Học viện Hành chính Quốc gia, Đại học Kinh tế, Đại học Ngoại ngữ – Tin học…
- Ngoài ra, Quận còn có 32 trường mầm non, 11 trường trung học cơ sở, và 9 trường trung học phổ thông
Gas Gia Đình Đường Lý Thường Kiệt Quận 10 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách gồm 15 phường. Khách hàng thuộc khu vực Quận 10 có nhu cầu sử dụng gas Gia Đình vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
Lịch sử hình thành và phát triển của quận 10
Quận 10 trước đây là khu vực trống, hoang vu nằm giữa vùng Sài Gòn và Chợ Lớn. Về sau, do vị trí thuận lợi, nên dân cư đến tập trung sinh sống. Vào đời vua Minh Mạng, Lê Văn Khôi con nuôi của Lê Văn Duyệt, từng lãnh đạo nhân dân vùng này nổi dậy chống lại triều đình. Vua Minh Mạng đã cho đàn áp, số người tử trận được chôn trong các nấm mồ tập thể rải rác khắp khu vực từ bệnh viện Bình Dân kéo dài đến Việt Nam Quốc Tự. Vì thế, người ta gọi vùng này là Mả Ngụy.
Tên gọi Mả Ngụy có lẽ do đầu buổi đầu dân còn sợ vua Minh Mạng. Về sau, người ta gọi là Đồng Mả Lạng, theo nghĩa mất dấu vết vì thời gian. Người Pháp gọi “cánh đồng mồ mả” vì có quá nhiều mồ mả (Plaise Des Tombean). Ban đầu, người Pháp sử dụng những đồng cỏ này để nuôi ngựa, nhưng đất đai khô cằn, cỏ khó mọc. Đến những năm 1945, dân Lục Tỉnh, dân miền Trung dồn dập tản cư vào, khu vực này trở nên đông đúc hơn.
Năm 1899, vùng đất quận 10 thuộc tỉnh Chợ Lớn.
Thời Việt Nam Cộng hòa
Ngày 1 tháng 7 năm 1969, quận 10 (quận Mười) của Đô thành Sài Gòn được thành lập trên cơ sở tách đất quận 3 và quận 5 trước đó. Ban đầu quận gồm 04 phường: Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, Chí Hòa.
Năm 1972, lập thêm phường Nhật Tảo tại quận Mười (quận này có 05 phường). Cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, quận 10 (quận Mười) gồm 05 phường: Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, Chí Hòa, Nhật Tảo.
Từ năm 1975 đến nay
Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn – Gia Định được thành lập. Lúc này, quận 10 (quận Mười) thuộc thành phố Sài Gòn – Gia Định cho đến tháng 7 năm 1976.
Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh thành phố Sài Gòn – Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban Nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn – Gia Định). Theo đó, vẫn giữ nguyễn quận 10 cũ có từ trước đó. Lúc này, các phường cũ đều giải thể, lập các phường mới có diện tích, dân số nhỏ hơn và mang tên số. Quận 10 có 25 phường, đánh số từ 1 đến 25.
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 1 chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 10 trở thành quận trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, theo Quyết định số 52-CP của Hội đồng Chính phủ, quận 10 giải thể ba phường: 10, 13 và 18, địa bàn ba phường giải thể nhập vào các phường kế cận; số lượng phường trực thuộc quận còn 22:
- Giải thể phường 13; đất và dân cư của phường này sáp nhập vào các phường 12 và 14
- Giải thể phường 10; đất và dân cư của phường này sáp nhập vào các phường 9 và 15
- Giải thể phường 18; đất và dân cư của phường này sáp nhập vào các phường 16 và 19
- Ngày 12 tháng 9 năm 1981, giải thể hai phường: 4 và 17, địa bàn các phường giải thể nhập vào các phường kế cận. Số phường trực thuộc quận 10 còn 20.
Ngày 14 tháng 2 năm 1987, theo Quyết định số 33-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, quận 10 giải thể 20 phường hiện hữu, thay thế bằng 15 phường mới, đánh số từ 1 đến 15. Sự phân chia đơn vị hành chính này giữ ổn định cho đến ngày nay:
- Đổi tên phường 5 cũ thành phường 1.
- Sáp nhập phường 2 cũ với phường 3 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 2.
- Đổi tên phường 1 cũ thành phường 3.
- Sáp nhập một phần phường 8 cũ với phường 9 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 4.
- Sáp nhập phần còn lại của phường 8 vũ với phường 7 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 9.
- Đổi tên phường 15 cũ thành phường 5.
- Đổi tên phường 16 cũ thành phường 6.
- Đổi tên phường 19 cũ thành phường 7.
- Đổi tên phường 11 cũ thành phường 8.
- Đổi tên phường 12 cũ thành phường 10.
- Đổi tên phường 14 cũ thành phường 11.
- Đổi tên phường 21 cũ thành phường 12.
- Sáp nhập một phần phường 24 cũ với phường 23 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 13.
- Sáp nhập phần còn lại của phường 24 cũ với phường 25 cũ thành 1 phường lấy tên là phường 15.
- Đổi tên phường 20 thành phường 14.
Thông tin thêm về các phường
- Phường Minh Mạng cũ: các phường 1, 2 và 3 hiện nay
- Phường Nhật Tảo cũ: các phường 4 và 9 hiện nay
- Phường Nguyễn Tri Phương cũ: các phường 5, 6, 7, 8 và 14 hiện nay
Quận 10 nổi tiếng với Ngôi chùa cổ tôn nghiêm “Việt Nam Quốc Tự”
Việt Nam Quốc Tự tọa lạc tại 244 đường Ba tháng Hai, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Việt Nam Quốc Tự hiện là trụ sở mới của Ban trị sự Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam (trụ sở cũ là chùa Ấn Quang). Hiện tại, Trụ trì của Việt Nam Quốc Tự là Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thích Trí Quảng.
Lịch sử hình thành của “Việt Nam Quốc Tự”
Giai đoạn từ 1963-1975
Nguyên thủy, sau cuộc đảo chính 1963 tại Nam Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập và được chính phủ lâm thời Việt Nam Cộng hòa bấy giờ cho giáo hội một khu đất rộng 4 mẫu với danh nghĩa là mướn thời hạn 99 năm chỉ với một đồng bạc tượng trưng và được tiếp tục khi hết hạn . Chính phủ của tướng Nguyễn Khánh còn tiến cúng 10 triệu đồng để xây chùa.
Lễ đặt đá xây dựng Việt Nam Quốc tự cử hành vào lúc 8 giờ sáng ngày 26 tháng 4 năm 1964 dưới sự chứng minh của Chư tôn Giáo phẩm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cùng với sự chứng kiến của Quốc trưởng, đồng thời cũng là Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa bấy giờ là tướng Nguyễn Khánh.
Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ là người vẽ đồ án xây dựng, dự kiến chùa được xây dựng với một ngôi tháp 7 tầng mái cong, chạm trổ tinh vi trong không gian thiên nhiên rộng rãi trên vùng đất rộng 45 nghìn mét vuông, với các cảnh quan đặc sắc hài hòa mang đậm bản sắc phong cách kiến trúc Việt Nam.
Đồ án mới xây xong Tháp Việt Nam Quốc tự bảy tầng và một dãy Tăng xá nhưng chưa hoàn thành trọn vẹn. Chùa cũng là trụ sở của Viện Hóa Đạo thuộc GHPGVNTN đến năm 1975 với người trụ trì đầu tiên là hòa thượng Thích Thiện Hoa. Đây là một chùa thuộc hệ phái Bắc tông, tập họp chủ yếu quý tăng ni Phật tử miền Bắc di cư, thường được gọi là miền Vĩnh Nghiêm.
Năm 1965, hòa thượng Thích Từ Nhơn được thỉnh cử đảm nhiệm trụ trì Việt Nam Quốc Tự cho đến nay. Năm 1967, hòa thượng Thích Tâm Châu đã thành lập Viện Đại học Phương Nam trong khuôn viên chùa. Cô nhi viện Quách Thị Trang do nhà chùa quản lý thì nằm phía sau chùa.
Từ 1975 tới nay
Sau khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam năm 1975, toàn bộ khu đất Việt Nam Quốc tự của GHPGVNTN bị nhà cầm quyền mới Cộng hòa Miền Nam Việt Nam trưng thu gần hết: Bốn mươi lăm nghìn mét vuông nguyên thủy rút xuống chỉ còn ba nghìn mét vuông nơi ngọn Tháp Việt Nam Quốc tự toạ lạc. Ngôi chùa thì giao cho Hoà thượng Thích Từ Nhơn cai quản. Hoà thượng Từ Nhơn lúc đó là Thủ qũy Viện Hoá Đạo, GHPGVNTN, sau này gia nhập Giáo hội Phật giáo Nhà nước và được mang chức Phó chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Khuôn viên Việt Nam Quốc Tự trong khoảng thời gian 10 năm (1975-1985) bị bỏ hoang phế nên nhà nước tạm thời trưng dụng xây dựng trung tâm vui chơi giải trí của thành phố – Khu du lịch Kỳ Hoà và Nhà hát Hòa Bình.
Vào năm 1988, Hòa thượng Từ Nhơn với danh nghĩa sư trụ trì cũ đã gửi đơn xin lại khu đất trưng thu và quyền sở hữu chùa Việt Nam Quốc Tự. Sau 5 năm, đến ngày 28 tháng 02 năm 1993 nhà nước cấp lại cho hòa thượng Thích Từ Nhơn theo đơn xin nhưng đất của chùa bị thu hẹp còn 3.712 m2 với ngôi tháp ban đầu đã được xây dựng còn dở dang.
Năm 1993, chùa được trùng tu và tôn tạo mới với nhiều hạng mục hơn. Sau hơn 10 năm tiếp nhận chùa đã hoàn thành ngôi tháp 7 tầng và các cảnh Phật để tăng ni phật tử và khách thập phương chiêm bái. Đến nay, chùa Việt Nam Quốc Tự vẫn là điểm lui tới của các tín đồ Phật giáo xa gần. Tuy nhiên hiện nay, trong sân chùa vào ban đêm thường bị chiếm dụng làm nơi bán sách bói toán.
Năm 2008 có tin Việt Nam Quốc Tự sẽ bị phá, sau khi UBND Thành phố Hồ Chí Minh ngày 23 tháng 2 năm 2008, cấp giấy phép đầu tư dự án xây dựng Trung tâm Tài chính Việt Nam trong khu vực này (với tổng vốn đầu tư 930 triệu USD cho Công ty Berjaya Land Bhd thuộc Tập đoàn Berjaya, Mã Lai). Tuy nhiên, trong cuộc họp báo ngày 25 tháng 6 cùng năm đã được xác nhận chính thức là chùa không thuộc vùng quy hoạch Trung tâm tài chính Việt Nam.
Ngày 31 tháng 10 năm 2015, Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh tổ chức lễ cầu nguyện rót đồng đúc tượng Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tượng có chiều cao 7,5m, nặng 35 tấn. Bức tượng đồng sau khi hoàn thành sẽ được thờ trong chánh điện Việt Nam Quốc Tự và là pho tượng bằng đồng thờ trong chánh điện lớn nhất Việt Nam hiện nay.
Ngày 7 tháng 11 năm 2017, công trình Việt Nam Quốc tự xây mới chính thức được khánh thành. Việt Nam Quốc tự được khởi công xây dựng vào ngày 12 tháng 10 năm 2014 (nhằm ngày vía Quán Thế Âm Bồ Tát), là công trình trọng điểm chào mừng Đại hội Đại biểu Phật giáo TP.HCM lần thứ IX, cũng là để kỷ niệm ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (7 tháng 1 năm 1981). Tổng kinh phí đầu tư cho dự án Việt Nam Quốc tự là 250 tỉ đồng, trong đó phần chánh điện được đầu tư tu sửa với chi phí là 180 tỉ. Thành phố Hồ Chí Minh thu hồi và bàn giao lại hơn 7.200 m2 cho Việt Nam Quốc Tự xây chánh điện và các hạng mục khác. Các hạng mục công trình đã hoàn thành gồm 5 tầng với những công năng khác nhau, như tầng hầm rộng gần 8.000 m2 dùng làm bãi đỗ xe cho khách, tầng một là nơi bố trí hội trường, tầng hai là khu văn phòng… Đặc biệt, tháp bảo 13 tầng, cao 63 m ngoài ý nghĩa biểu tượng cho tinh thần phụng sự, thống nhất của 13 tổ chức, hội đoàn, tông phái tham gia cuộc tranh đấu bất bạo động của Phật giáo vì hòa bình và bình đẳng tôn giáo tại miền Nam năm 1963; đây còn là nơi dự kiến sẽ tôn thờ xá lợi trái tim bất diệt của Bồ tát Thích Quảng Đức.
Gas Gia Đình Đường Lý Thường Kiệt Quận 10 nhận giao gas tận nơi cho Quý khách gồm 15 phường thuộc Quận 10, Tp. Hồ Chí Minh, phục vụ giao gas trên mọi nẻo đường của Quận 10. Quý Khách hàng có nhu cầu sử dụng gas Gia Đình thuộc khu vực Quận 10 vui lòng gọi gas qua số (028) 6683 6644
Bà Hạt
Ba Vì Bắc Hải Bạch Đằng Bạch Mã Bàn Cờ Bửu Long Cách Mạng Tháng 8 Cao Thắng Châu Thới Cửu Long Đào Duy Từ Đào Nguyên Phổ Đất Thánh Điện Biên Phủ Đồng Nai Đường 3 Tháng 2 Hầu Thới Hồ Bá Kiện Hồ Thị Kỷ Hòa Bình Hòa Hảo Hòa Hưng Hoàng Dư Khương |
Hoàng Văn Thụ
Hồng Bàng Hồng Lĩnh Hưng Long Hùng Vương Hương Giang Kênh Nhiêu Lộc Kỳ Hòa Lãnh Binh Thăng Lê Đại Hành Lê Hồng Phong Lữ Gia Lý Thái Tổ Lý Thường Kiệt Ngô Gia Tự Ngô Quyền Nguyễn Chí Thanh Nguyễn Duy Dương Nguyễn Giản Thanh Nguyễn Kim Nguyễn Lâm Nguyễn Ngọc Lộc Nguyễn Thị Định Nguyễn Thượng Hiền |
Nguyễn Tiểu La
Nguyễn Tri Phương Nguyễn Trung Trực Nguyễn Văn Lượng Nhật Tảo Sư Vạn Hạnh Tam Đảo Tân Phước Thành Thái Thất Sơn Thiên Phước Tô Hiến Thành Trần Bình Trọng Trần Hưng Đạo Trần Minh Quyền Trần Nhân Tôn Trần Quốc Dung Trần Quý Trần Thiện Chánh Trần Văn Đang Trường Chinh Trường Sơn Vĩnh Viễn |